Văn Học

Phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Tác Giả Huy Cận

You are viewing this post: Phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Tác Giả Huy Cận

Phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi  – Tác Giả Huy Cận gồm bài văn tổng hợp và 19 bài văn mẫu đạt điểm cao nhất. Điều này giúp hình dung cách thức, các bước và phương pháp giải quyết vấn đề mà bài toán đặt ra. Sau phần khái quát chi tiết, có các bài văn mẫu để bạn đọc tham khảo, so sánh rút kinh nghiệm giải bài. Hãy cùng tham khảo với anvuongvilla.com.vn ngay bên dưới nhé !

Phân tích bài thơ Tràng Giang - Huy Cận
Phân tích bài thơ Tràng Giang – Huy Cận

I. Sơ đồ tư duy Phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi


Đây là sơ đồ tư duy mà bạn có thể sử dụng để phân tích bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận, lưu ý dành cho Học Sinh Giỏi:

I. Tổng quan về bài thơ

  • Tiêu đề: Tràng Giang
  • Tác giả: Huy Cận
  • Thể loại: Thơ lục bát, thơ văn học cổ điển
  • Nội dung: Truyền tải thông điệp về tình yêu tự do và sự đoàn kết dân tộc.

II. Phân tích chi tiết

  1. Mở đầu (câu 1-6)
  • Mô tả về đất nước Việt Nam, với những nét đẹp độc đáo như mùa xuân tươi vui, con người hiền hòa, núi non, sông suối và đặc biệt là sông Hồng.
  • Nhắc đến truyền thống lịch sử của đất nước Việt Nam và văn hóa dân tộc phong phú.
  1. Thiên nhiên sông Hồng (câu 7-13)
  • Sông Hồng được miêu tả là vùng đất của tình yêu tự do, nơi trăng sáng rực rỡ và ánh nắng chiếu sáng suốt ngày đêm.
  • Sông Hồng cũng là nơi lưu trữ những câu chuyện lịch sử của dân tộc, được truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
  1. Nỗi nhớ quê hương (câu 14-24)
  • Tác giả nhắc đến cảm giác nhớ nhà, nhớ quê hương của những người xa xứ.
  • Sông Hồng là người bạn đồng hành và đem lại hy vọng cho những người xa quê.
  • Tác giả cũng khuyên những người xa xứ đừng quên nguồn cội của mình, cần phải trân trọng và gìn giữ văn hóa dân tộc.
  1. Tình yêu tự do (câu 25-36)
  • Sông Hồng cũng là biểu tượng cho tình yêu tự do của dân tộc, nơi mà những con thuyền cùng nhau chèo đến nơi mình muốn.
  • Tác giả muốn truyền tải thông điệp rằng dân tộc Việt Nam luôn yêu tự do và đấu tranh cho nó.
  • Sông Hồng là biểu tượng cho sự đoàn kết dân tộc, nơi mà các tộcngười cùng sống, sinh hoạt và làm việc với nhau. Bằng cách đưa ra hình ảnh của sông Hồng, tác giả muốn nhấn mạnh tinh thần đoàn kết, tình yêu tổ quốc và lòng tự hào dân tộc.
  • Tình yêu tự do cũng được thể hiện thông qua những con thuyền trên sông, mỗi con thuyền chèo đến nơi mình muốn, không bị ràng buộc hay hạn chế. Tác giả muốn nhắc nhở độc giả rằng tình yêu tự do không chỉ là một giá trị quan trọng của dân tộc, mà còn là quyền của mỗi cá nhân, cần được tôn trọng và bảo vệ.
  • Tuy nhiên, trong bài thơ cũng có những chi tiết mang tính tiêu cực như sự ô nhiễm và mất môi trường ở sông Hồng. Điều này là lời cảnh báo về những vấn đề môi trường đang diễn ra ở Việt Nam, và giúp chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và sự sống của con người.

II. Tổng hợp Dàn ý Phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi

Dưới đây Tổng hợp Dàn ý Phân tích Tràng Giang với dàn ý chi tiết nhất. Bài văn tổng hợp Tràng Giang có thêm gợi ý ôn tập, giúp các bạn nhanh chóng nắm được kiến ​​thức cần biết để làm bài văn.

Tổng hợp Dàn ý Phân tích Tràng Giang
Tổng hợp Dàn ý Phân tích Tràng Giang

1/ Dàn ý phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi

I. Giới thiệu bài thơ

  • Tên bài thơ: “Tràng Giang”
  • Tác giả: Huy Cận
  • Năm viết: 1941
  • Nội dung chính: miêu tả vẻ đẹp của sông Hương vào mùa thu, sự khao khát tình yêu và sự chia tay đau đớn.

II. Sự đan xen giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại

  • Tác giả miêu tả vẻ đẹp của sông Hương trong bài thơ, trong đó vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua các cảnh sông, núi, trời, mây, cây cối, động vật… cùng với sự chuyển động của thời gian.
  • Tuy nhiên, tác giả cũng miêu tả vẻ đẹp hiện đại qua những hình ảnh của con người, như những người đàn ông, phụ nữ đang bắt cá, tàu thuyền đưa đón hành khách, những đèn trang trí trên tàu, hay những dòng xe qua lại trên cầu.
  • Sự kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại tạo nên một bức tranh hoàn hảo về vẻ đẹp của sông Hương vào mùa thu.

III. Tình yêu và sự chia tay

  • Tác giả miêu tả tình yêu giữa người đàn ông và người phụ nữ trong bài thơ, tình yêu được tác giả diễn tả qua những câu thơ tình cảm, mộc mạc, nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa.
  • Tuy nhiên, tình yêu của hai người đó không được thực hiện khi họ phải chia tay nhau vì lý do gia đình.
  • Sự chia tay đau đớn được tác giả miêu tả rất chân thật và xúc động, tạo nên một cảm giác buồn lẫn hy vọng cho người đọc.

IV. Tầm quan trọng của bài thơ

  • Bài thơ “Tràng Giang” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Huy Cận và là một tác phẩm đại diện cho thơ lãng mạn Việt Nam.
  • Bài thơ đã tạo nên một ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của sông núi miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là dòng sông Tràng Giang.
  • Tuy nhiên, đặc điểm của vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã được nhà thơ Huy Cận thể hiện khác nhau. Trong đó, vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua sự kết hợp giữa thiên nhiên và văn hóa truyền thống, thể hiện qua các hình ảnh như cồn đá, dòng sông uốn lượn, con thuyền tre và những người dân miền núi trong tà áo dài. Trong khi đó, vẻ đẹp hiện đại được thể hiện qua những hình ảnh mới, đặc biệt là những kỹ thuật mới như máy bay, máy chạy và các công trình xây dựng hiện đại.
  • Tuy nhiên, bất chấp sự khác biệt trong thể hiện, nhà thơ Huy Cận đã thành công trong việc tạo ra một bức tranh tuyệt đẹp về vẻ đẹp của Tràng Giang, nơi ông đã sinh ra và lớn lên.

2/ Dàn ý phân tích Tràng Giang khổ 3

A. Mở bài

Mở bài bài: Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận được sáng tác trong thời kì này. Đặc biệt, nhan đề Tràng Giang và nhan đề độc đáo của nó có tác dụng định hướng, định hướng, lôi cuốn người đọc vào việc tìm hiểu, khám phá tác phẩm.

B. Thân Bài

– Nhan đề Tràng Giang không chỉ giúp bộc lộ nội dung bài thơ mà còn gợi mở những tâm tư, tình cảm thầm kín của Huy Cận về cuộc sống nơi trần thế.

– Nhan đề Tràng Giang với vần hai âm góp phần khơi gợi cảm xúc chủ đạo của bài thơ, tạo cho bài thơ ấn tượng ban đầu về nỗi sầu muộn dai dẳng, luôn trĩu nặng nỗi đau.

  • Tràng Giang gợi không gian vô tận, bao la cả chiều dài và chiều rộng của dòng sông.
  • Vần ‘ang’ kéo dài không dứt như nỗi sầu muộn, suy tư của Huy Cận khi đứng trước cái mênh mông, bất trắc của dòng sông.

– Nhan đề Tràng Giang tuy ngắn gọn nhưng đã nhấn mạnh được thông điệp, tư tưởng, tình cảm chính được truyền tải trong bài thơ.

  • Lời bài hát ‘Nghĩ trời rộng ta nhớ sông dài’ là những lời tâm sự đầy xúc động nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc về nội dung và nghệ thuật.
  • Không gian mở ra trước mắt người đọc là một không gian rộng lớn đến choáng ngợp trước tầm vóc vũ trụ.
  • Ca từ của bài thơ đã thể hiện rất rõ tâm trạng suy tư, u uất của Ngụy Khang về sự yếu đuối của con người trước vũ trụ bao la.
  • Bộc lộ nỗi băn khoăn về không gian của hồn thơ Huy Cận

C. Kết Bài

Nhan đề và ca từ tinh tế, độc đáo đã bộc lộ tài năng của Huy Cận đồng thời bộc lộ cảm hứng và tư tưởng chủ đạo của thơ Tràng Giang.

3/ Dàn ý phân tích tràng giang khổ 4

A. Mở bài

  • Mở bài những nét chính về nghệ sĩ Huy Cận (con người, con người, sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,…)
  • Tóm tắt bài thơ Tràng Giang (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, những đặc điểm cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật,…)

B. Thân Bài

* Tiêu đề và câu thơ

– Chức vụ:

  • Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, nghĩa là sông dài.
  • Nó sử dụng hai vần mở để ngân vang và ngân dài nối tiếp nhau gợi lên hình ảnh sông dài, sông rộng.

– Những câu thơ có nhan đề: nêu ngắn gọn tình và cảnh trong bài thơ.

– Câu thơ mở đầu khổ thơ đầu mở ra hình ảnh sông nước mênh mông.

→ Điệp từ gợi cho ta hình ảnh những con sóng bất tận và làm nổi bật cả không gian bao la.

– Hình ảnh: Con thuyền xuôi ngược gợi lên những điều nhỏ bé.

→ Sự đối lập giữa không gian sông nước bao la và hình ảnh chiếc thuyền nhỏ gợi lên trong lòng ta sự cô đơn, lẻ loi.

– Hai câu cuối:

  • Con tàu và dòng nước dường như đang ôm nỗi buồn chia tay, cho lòng người ‘trăm mối sầu’. Nhất là giữa khung cảnh sông nước hùng vỹ ấy,
  • Hình ảnh “vài hàng củi, cành khô khuất bóng” gợi lên trong tâm trí người đọc một niềm lưu luyến khôn nguôi về cõi hư vô, bơ vơ của con người không biết mình đang đi về đâu.

→ Ở khổ thơ đầu, nếu ví dòng sông như một dòng đời bất tận thì hình ảnh con tàu và những cành củi khô là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, bấp bênh, đồng thời gợi nỗi niềm không biết mệt mỏi. . Của tác giả không đổi.

– Hai đoạn đầu vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.

  • Nghệ thuật phản chiến, với những từ lóng đặc biệt gợi cảm cho “nhàn hạ” và “u ám”, gợi lên cảm giác hiếm có, hoang tàn và mát mẻ.
  • Cụm từ ‘nơi vắng tiếng đàn xa chợ chiều’ là một cụm từ có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì cụm từ vẫn gợi lên nỗi buồn, sự cô đơn, sa sút, thiếu thốn trong cuộc sống. trái tim của người đọc.

– Hai câu sau gợi nỗi sầu, nỗi cô đơn trong lòng người bằng cách làm cho khung cảnh vốn đã hoang vắng nay càng thêm hiu quạnh, vắng lặng khi không gian như mở rộng ra muôn phương.

– Hình ảnh “nơi nối đôi đường”: Gợi hình ảnh kiếp người, cõi nhân sinh lênh đênh không biết đi đâu, về đâu.

– Kỹ thuật phủ định được lặp lại: “Không qua được”, “Không được”.

→ Nó thiếu vắng những dấu vết của sự sống, những hình bóng con người, hơn hết là tình người, sự hòa hợp, thân thiết giữa con người với nhau.

– Hai câu thơ đầu của khổ thơ: vẽ nên bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng.

  • Hình ảnh những đám mây trắng xếp chồng lên nhau “nhảy ra” trong ánh nắng chiều như tạo nên những ngọn núi dát bạc.
  • Hình ảnh cánh chim như một tia sáng ấm áp vào cảnh vật nhưng vẫn không làm vơi đi nỗi buồn sâu thẳm trong lòng nhà thơ.

– Hai câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết của người viết.

  • Hình ảnh ‘dòng nước chảy’ không chỉ lan xa mà còn gợi lên nỗi nhớ da diết khôn nguôi của những người con xa xứ nhớ quê hương da diết.
  • Câu thơ cuối theo phong cách cổ điển khép lại bài thơ bằng sự thể hiện chân thực và rõ nét nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

C. Kết Bài

Mở bài khái quát về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ và những nét riêng về cảm xúc cá nhân.

4/ Dàn ý phân tích tràng giang khổ 1

A. Mở Bài

  • Mở bài tác giả và tác phẩm
  • “Những lời tuyệt vọng là lời bài hát hay nhất.
  • Tiếng nấc ấy chứa đựng một ngòi bút bất diệt ”.
  • (không ai)

Những cảnh đẹp nhất mang đến nỗi buồn khó tả, và những đoạn buồn nhất chạm vào tâm hồn con người một cách thấm thía nhất. Nói đến thi sĩ sầu bi thì không ai đánh được Huy Cận. Nói đến bài thơ buồn nhất của Thơ Mới không thể không nhắc đến bài “Tràng Giang”.

Dàn ý phân tích tràng giang khổ 1
Dàn ý phân tích tràng giang khổ 1

B. Thân Bài

Được viết vào một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi Huy Cận mới 20 tuổi, “Tràng Giang” thể hiện rõ nhất hồn thơ Huy Cận.

Lê Duy cho biết:

  • “Nó là một làn sóng – mọi đau khổ đều là một làn sóng.
  • Là tâm trạng, mọi đau khổ đều lặng lẽ lắng đọng ”.

Trên hết “Tràng Giang” là “trời rộng sông dài”, là bức tranh bao la của dòng sông vĩnh hằng trên đất liền Việt Nam. Hai chữ Tràng Giang trong nhan đề bài thơ mang sắc thái cổ kính xưa. “Trường Giang” không phải là “Trường Giang”. Bởi vì “ang” vận may mới gợi lên một sự rộng lớn vô tận, lan tỏa đến bến bờ. Nhưng nếu tình yêu không quá nặng nề và u ám thì cảnh này đã xảy ra. Cảnh là tình, tình hòa vào cảnh tạo nên cảnh đẹp, cảm xúc đẹp.

  • Câu 1: Sóng buồn sầu.

Hai từ “thông điệp”: quay lưng lại cho phép nỗi buồn của mọi người ngấm vào sóng. Cảm giác như bạn không chỉ nhìn những con sóng trên sông, mà đang hòa mình vào những con sóng bất tận trong tâm trí, sự mênh mông và những con sóng vỗ vào chân trời.

  • Câu 2: “Con thuyền xuôi theo dòng nước”

Sóng lắc lư, sóng trải dài mãi, lặng lẽ khó nói. Có tiếc nuối thân phận trôi nổi không?

  • Câu 3 “Con tàu trở về quê hương lại than khóc”.

Hình ảnh ‘con tàu về quê’ vẫn là ‘nỗi buồn đảo trắng’, bâng khuâng bâng khuâng.

  • Câu 4: “Một vài hàng củi từ những cành cây chết đã bị đốt cháy.”

Củi củi đời thường được tác giả “tính tiền” trong “Trường Giang” có sự góp mặt của Dương Thị. “Củi” không phải là hoa, bèo, cây, v.v. “Củi” sánh với “một” nhưng hiu quạnh, hiu quạnh hơn. “Củi” đi với “cành khô” khô khốc hơn, thê lương hơn. “Củi” của “mất mấy dòng”, nhưng lêu lổng, vu vơ hơn. Câu nói “củi khô cành lạc lối” thực sự là nỗi cô đơn, lẻ loi và những con sóng không tên ùa về trong tâm trí con người. Từ bạt ngàn cây xanh tươi tốt đến những cành khô khẳng khiu, cũng có lúc tình trạng cỏ cây héo úa, tàn tạ, biến thành những cụm từ “giòn tan, lay động” ấy.

Tràng giang bây giờ là cảnh sông nước mùa lũ, nhưng kỳ thực là cảnh đời mây trôi. Người thì hụt hẫng, lo lắng, băn khoăn và c-đó cũng là tâm trạng của giới trí thức lúc bấy giờ.

Nỗi buồn lan tỏa, và sự cô đơn, lẻ loi của ‘Đồi cát nhỏ, ngọn gió cô đơn’ thoang thoảng lẫn lộn. Trong nỗi bơ vơ, buồn tủi ấy, nhà thơ tìm thấy hơi ấm của cuộc đời. “Ở đâu” và “ở đâu”? Nhưng dù sao thì họ cũng rất xa nhau. Những âm thanh chợ chiều tuy vui nhưng lại thêm phần buồn tẻ, hiu quạnh, hiu quạnh. Tôi muốn nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng tất cả đều gập ghềnh, gần một chút nhưng chia tay nhiều hơn. Vì vậy, nỗi buồn cũng thô hơn …

  • Hai câu cuối: “Mặt trời lặn… Bến tàu cô đơn ”

Không gian bỗng bừng lên, mở rộng và khi nhà thơ thốt lên hai câu tuyệt vời thì nó như mở ra vô cùng. Mỗi ánh nắng từ trên trời chiếu xuống tạo ra một vực sâu thăm thẳm trên bầu trời. Người nghệ sĩ dùng từ ‘sâu’ hơn là từ ‘cao’ bởi nó không chỉ mang chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi niềm sâu kín trong lòng con người.

  • Hai dòng thơ: “Tuyệt vời… thuộc về “

Không có phà và không có cây cầu nhỏ nối hai bờ. Khi một loạt từ “không” được hiển thị nối tiếp nhau, mọi thứ được kết nối đều bị vô hiệu hóa, chỉ còn lại một khoảng trống vô định. Hai bên là hai thế giới khác nhau. Chỉ có ‘Bờ sậy vàng’ và đám bèo trôi lững lờ đâu đó. Cảm giác bị chia cắt và phân tán càng được nhấn mạnh bởi hình ảnh một đám bèo bồng bềnh.

Hai từ gợn gợi cảm giác đánh đồng sóng trên sông dài với gợn sóng trong tâm tưởng người nghệ sĩ.

Cả hai đoạn đều gợi lại những ý thơ của Thôi Hiệu. Nhưng nếu người xưa thấy khói sóng sông nhớ quê hương thì Huy Cận đâu cần chất xúc tác ấy. Rõ ràng, nỗi buồn không đến từ bên ngoài, mà từ nỗi buồn bên trong tràn về không ngừng. Dù quê hương ở xa, nhưng những người già nhớ quê, Weikang, những người đang đứng trước quê hương, vẫn đang khóc với niềm khao khát. tại sao? Đó không chỉ là nỗi nhớ quê mà còn là nỗi niềm của một lớp thanh niên khi đất nước chìm trong nô lệ.

Thế Lữ và Chế Lan Viên chọn sống trong cõi mộng với “giữa vườn vắng lạnh tinh” với “tiếng sáo thiên thanh”, còn Vũ Hoàng Chương thì nghiện thuốc phiện, xa hoa. Huy Cận’s Tràng Giang ”đích thực là“ bài ca đất nước, mở đường tình yêu đất nước ”(Xuân Diệu)

  • Bài thơ có sự kết hợp tuyệt vời giữa cảnh và tình trở thành một chứ không phải là hai, không chỉ gợi lên cảnh sắc đất nước Việt Nam mà còn gợi lên bao cảm xúc của những người con trước đất nước.
  • Nghệ thuật: Đoạn thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh của bài thơ được sử dụng không sắc sảo nhưng vẫn có những liên tưởng vô hạn. Tính cách thơ Tồn Hiếu ngày xưa đã trở thành nét lãng tử của Huy Cận ngày nay.

C. Kết Bài

  • Tóm lại, hãy cho tôi biết suy nghĩ của bạn
Dàn ý phân tích tràng giang khổ 1 2
Dàn ý phân tích tràng giang khổ 1 2

5/ Dàn ý phân tích tràng giang khổ 1 2

A. Mở Bài

  • Đôi nét về tác phẩm của các tác giả Huy Cận và Tràng Giang
  • Khổ thơ đầu tiên mở ra nỗi niềm con người của người nghệ sĩ như một không gian vô tận của thiên nhiên.

B. Thân Bài

* Sáng tác thơ

– Vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, khi người nghệ sĩ tròn 20 tuổi, ở bờ nam Bến tàu Chàm, đứng trước sông Hồng với nỗi buồn vô hạn.

* giá trị nội dung

  • Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, tươi đẹp của đất mẹ ẩn chứa nỗi buồn chất chứa tình yêu quê hương tha thiết.
  • Đối lập giữa thiên nhiên bao la và vũ trụ bao la là cái tôi nhỏ bé, cô đơn và lạc lõng.
  • Con người buồn, cô đơn, sầu muộn trước thiên nhiên bao la.

=> Người nghệ sĩ thầm chụp cảnh quê hương (khi bạn ở giữa quê hương mà bơ vơ, lạc lõng, lẻ loi trên đường chính) để thể hiện khát vọng hòa nhập giữa con người với thiên nhiên. > tình cảm của người mất quê hương).

* Giá trị nghệ thuật:

  • Thơ là sự kết hợp giữa thơ cổ điển, thơ hiện đại, thơ thất ngôn và thời thế, nhưng cái tôi của thơ mới được kết hợp lại.
  • Những hình ảnh gợi lên trong bài thơ thật trong sáng và tràn đầy cảm xúc.
  • Khi đó (唐詩) được thấm nhuần các phong cách nghệ thuật như nhan đề, thể thơ, uẩn khúc (sự đơn độc của con người trước tạo vật, vũ trụ vĩ đại), và đối ngẫu, đối ngẫu.

* Phân tích mục 1:

– Người nghệ sĩ đứng trên bến sông nhìn xuống dòng nước sông Hồng hùng vỹ, tạo nên những hình ảnh chân thực, vô cùng gợi hình.

  • Những chiếc thuyền nhỏ và cành khô trôi trên dòng nước sông lăn tăn gợn sóng.
  • Hình ảnh gợn sóng: Mặt nước mênh mông, gợn sóng lăn tăn trên mặt sông => Nỗi buồn gợi hình ảnh khiến lòng nhà thơ xao xuyến.
  • Hai từ “trang giang” là từ Hán Việt, hai âm “ang” tạo nên âm vang của những đoạn gợi nhớ sông dài, rộng cổ.
  • Điệp từ: Sóng cứ ập đến => Nỗi buồn miên man, khôn nguôi, một nỗi buồn cụ thể ngự trị trong lòng người nghệ sĩ.

– Một chiếc thuyền xuất hiện giữa làn nước khổng lồ

+ Thuyền đối diện với sóng không lật mái chèo mà đặt mái chèo một cách thụ động để nước xô đẩy.

=> Con thuyền lững lờ trôi giữa dòng sông rất nhỏ.

=> Nghệ thuật “song trùng điệp điệp”: khơi gợi nỗi niềm trần thế lan tỏa trong tâm hồn Huy Cận, bản thân ông như một con tàu khác, bất lực trước những sóng gió cuộc đời, buông xuôi bất chấp những áp lực của cuộc sống.

– “Con tàu đã trở lại… nghiêng mình ”Ảnh:

  • Hình ảnh thường xuất hiện trong thơ
  • Thuyền và nước biết sẽ gặp nhau, hẹn ước bên nhau nhưng ở đây cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, rồi lại chia xa.
  • Hình ảnh ‘Con tàu về quê’ gợi cho ta cảnh chia tay, chia tay.
  • “Hàng trăm nỗi buồn”: Mối rất lớn và lan rộng trên hàng nghìn dặm.

– “Củi… Vài dòng ”hình ảnh:

  • Đầu tiên là nghệ thuật phản chiến nhằm nhấn mạnh hình ảnh cành khô giữa dòng nước.
  • Nó nhấn mạnh sự nhỏ bé và đơn độc của một cành cây nhỏ giữa vùng biển bao la.
  • “Cành khô”: gợi nhớ đến sự khô cằn, thiếu sức sống và nghèo nàn.
  • “Multiple Lines”: Cả hai đều gợi nhớ đến phong cảnh sông nước hùng vỹ, gợi lên hình ảnh về dòng chảy của cuộc sống, trải qua nhiều giai đoạn nhưng không biết nên chọn hướng nào.

=> Cành cây chết chìm trong dòng nước khổng lồ => Người đàn ông cô đơn giữa cuộc đời, anh ta xót xa tột độ.

– Tác giả đã sử dụng hiệu quả các phép ví von (điệp ngữ buồn – nước song song, buồn trăm phương – lạc đôi dòng) và tiếng lóng => tạo nên sự tương phản lớn giữa cá thể cô đơn của cô và vũ trụ bao la.

* Mở bàin chung:

  • Yeonja gợi lên nỗi buồn sâu kín của người nghệ sĩ trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, gợi sự chia cắt, xa cách giữa con người với nhau, không có sự sắp đặt của hoa.
  • Nghệ thuật: Huy Cận đặc biệt thành công trong việc sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi và những vần điệu nhịp nhàng.

C. Kết bài

– Khẳng định lại ý nghĩa của cánh diều.

6/ Hướng dẫn sơ đồ phân tích Tràng Giang dễ hiểu

Hướng dẫn sơ đồ phân tích tràng giang dễ hiểu
Hướng dẫn sơ đồ phân tích tràng giang dễ hiểu

III. Tổng hợp bài phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi


Tổng hợp bài phân tích tràng giang đầy đủ bài văn mẫu đạt điểm cao nhất. Điều này giúp hình dung cách thức, các bước và phương pháp giải quyết vấn đề mà bài toán đặt ra. Sau phần khái quát chi tiết, có các bài văn mẫu để bạn đọc tham khảo, so sánh rút kinh nghiệm giải bài.

Tổng hợp bài phân tích tràng giang đầy đủ
Tổng hợp bài phân tích tràng giang đầy đủ

1/ Phân tích Tràng Giang ngắn gọn

Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não”. Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời.
Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận. Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung Quốc. Nhưng chính “tràng giang” này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát lên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận.

Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:

 

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô định. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh lòng hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.

Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cảnh buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô định. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.

Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiên không như lòng người mong ngóng:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Sang khổ thơ thứ ba dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu, cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.

Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.

Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệu:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu, thêm buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống.

Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” là sóng của sông hay là sóng trong lòng người.

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Từ những lời văn phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận, chúng ta có thể thấy được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.

2/ Phân tích tràng giang học sinh giỏi

Huy Cận là một trong những cây bút xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông giàu chất suy tưởng, triết lí và luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người với vũ trụ. Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.

Phân tích tràng giang của huy cận ngắn gọn
Phân tích tràng giang của huy cận ngắn gọn

Bài thơ khiến nhà thơ cảm nhận được nỗi buồn và tâm trạng của cảnh ở nhan đề bài thơ, ca từ đã tóm tắt ngắn gọn, chính xác cảnh và tâm trạng của bài thơ. .

Tin buồn có sóng vỗ Tràng giang
Con thuyền chìm dưới dòng nước song song, con thuyền
lại buồn khi trở về cố hương.
Củi cành khô rụng mấy hàng

Đứng trước một dòng sông mênh mông dường như nhân đôi nỗi buồn của người nghệ sĩ. Ở khổ thơ đầu, người nghệ sĩ đã sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát cảnh mà tác giả muốn gửi gắm tâm trạng của mình. Hình ảnh gợn sóng gợi cho ta liên tưởng đến những con sóng âm thầm mở ra, nhưng không hề do dự, như một nỗi niềm của nhà thơ, và những con sóng cứ thế tuôn ra vô tận. Sóng giữa sông dài biển rộng nhân lên bao nỗi niềm của nhà thơ. Cái nhìn của con tàu và tất cả những cảnh hiu quạnh chứa đầy những cảm xúc mà nhà thơ không biết giãi bày cùng ai. Tác giả sử dụng những hình ảnh rất đời thường để diễn tả chất thơ của mình, đó là một sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

Chiều tiếng làng xa chợ nơi
mặt trời lặn, trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, hiu quạnh.

Người nghệ sĩ một lần nữa bày tỏ cảm xúc của mình bằng hình ảnh ‘Rượu Sake, Gió, Làng, Chợ, và Bến tàu’. Bằng sự cảm nhận của người nghệ sĩ, cảnh vật trở nên mỏng tang, trống trải với nỗi buồn sâu kín khiến cảnh vật trở nên tĩnh lặng, buồn tẻ, tĩnh lặng và cũng chính vì sự tĩnh lặng mà nhà thơ cảm nhận được.

Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?

Người nghệ sĩ nghe thấy những âm thanh của cuộc sống hàng ngày, nhưng không rõ âm thanh đó ở đâu. Để nghe thấy âm thanh mơ hồ, nhà thơ cố gắng trấn tĩnh, nhưng không thể cảm nhận được, nhà thơ đã hướng ánh mắt của mình sang một điểm nhìn mới.

Mặt trời lặn, trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, cô đơn.

Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tả thực đối với cảnh mặt trời lặn và bầu trời mọc, ám chỉ sự chuyển động hai chiều của đất trời và nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Kẻ đứng giữa mênh mông sông nước trời đất như nhỏ lại, buồn đến vô tận.

Nước đi đến đâu
chẳng bến phà,
chẳng muốn thân tình
Bãi xanh vắng lặng gặp bãi vàng

Hình ảnh bèo tấm gợi nhớ cuộc đời trôi nổi của con người. Không có nơi cho hoa súng chảy, không có cầu, không có thuyền đưa khách, làm sao người ta có thể tránh khỏi buồn phiền khi nhìn thấy cảnh tượng như vậy? Người nghệ sĩ thể hiện khát vọng đồng cảm với cuộc đời và khát vọng sống tốt đẹp hơn thoát khỏi những u uất của cuộc đời trong khi tả cảnh.

Những tầng mây cao tỏa bóng núi bàng bạc
Chim vỗ cánh trong bóng chiều
đung đưa trong nước Lòng
quê không khói hoàng hôn không nhớ nhà.

Sau khi nhìn quanh, nhà thơ quay ra không gian và nhìn thấy hình ảnh đầu tiên của đám mây. Từ “nhô ra” cho biết chúng được xếp chồng lên nhau một cách mạnh mẽ. Ngọn núi sau đó được chiếu sáng bởi ánh hoàng hôn tạo nên màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi là “núi bạc”. Hình ảnh này thật lộng lẫy nhưng chất chứa bao nỗi niềm của anh. Như thể nỗi buồn của anh chồng chất như núi với mây chứa cánh chim bay.

Lòng quê xao xuyến theo dòng nước.
Hoàng hôn không khói mà còn có lọ nước hoa.

Tác giả đã dùng từ “sóng sánh” để miêu tả những gợn sóng lăn tăn theo dòng nước trải ra trong tích tắc, cho thấy chai nước hoa luôn hiện hữu bên người và sẵn sàng tỏa đi khắp mọi nơi.

Bài Tràng giang thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ. Nhà thơ đứng trước cảnh thiên nhiên bao la, căm giận trước cảnh vật mà sinh ra tình yêu, đó là tấm lòng yêu quê hương đất nước. Bằng cách tiếp cận những vấn đề mang tính đời sống, Tràng Giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.

3/ Phân tích Tràng Giang học sinh giỏi khổ 1

Phong trào thơ cách tân đã để lại tên tuổi của nhiều nhà thơ, trong đó có Huy Cận. Shimada của Huy Cận chất chứa nỗi buồn, nỗi sầu vô tận của một nhà thơ đi trước thời đại và xã hội. Đằng sau nỗi niềm ấy ẩn chứa trái tim của một người yêu nước. Thơ Tràng Giang là tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.

Phân tích tràng giang khổ 1 học sinh giỏi
Phân tích tràng giang khổ 1 học sinh giỏi

Phần mở đầu của tác phẩm có tựa đề ‘Dũng cảm trời rộng, mong sông dài’, phần mở đầu tuy chỉ vỏn vẹn 7 chữ nhưng đã chứa đựng toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là một cụm từ gợi lên nỗi buồn, sự lo lắng, nhớ nhung của con người trước một khung cảnh hùng tráng, sâu lắng. Từ than khóc gợi lên nỗi buồn và nỗi nhớ trong lòng nhà thơ, ngụ ý rằng những cụm từ như sau nên được diễn đạt một cách tự nhiên:

“Thuyền xuôi dòng, sóng reo sầu điệp điệp
thuyền buồn cô đơn về quê  Một vài hàng củi, cành cây khô đã mất hết ”.

Cụm từ này lặp lại tiêu đề của tác phẩm “trang giang” và vần “ang” được sử dụng tinh tế gợi nhớ đến một không gian có sông dài, rộng. Hai âm thanh ‘Jjangjang’ vang lên càng lúc càng mang theo nỗi buồn tha thiết. Sóng nhẹ nhàng gợn lên dòng sông, tạo cho dòng sông một không khí “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn sông nước cũng là nỗi niềm sâu kín của nhân vật trữ tình, tính từ “buồn điệp điệp” càng làm nỗi buồn thêm đau, từng lớp, nối tiếp nhau bất tận. Tưởng chừng nhẹ nhàng, nhưng mỗi cảnh thức dậy đều nặng nề và thấm thía vô cùng. Điều nổi bật trong không gian dài rộng là hình ảnh “con tàu trên nóc”, một con thuyền nhỏ lẻ loi lênh đênh trên mặt nước, còn bản thân nhà thơ thì tự nhiên lững lờ trôi như trống trải, cô đơn. Bỏ qua dòng đời vội vã.

“Thuyền về quê lại buồn.
Mất mấy hàng củi, cành chết khô ”.

Người nghệ sĩ không chỉ làm cho đoạn văn uyển chuyển, uyển chuyển mà còn gợi mở bằng cách sử dụng tinh tế hình ảnh tương phản “con tàu trở về quê hương” và chất thơ sảng khoái “vẽ vài nét trên cành tàn”. . âm thanh cổ xưa. Phép đảo ngữ “cây và cành khô” được đặt ở đầu câu nhằm nhấn mạnh sự cô đơn, lẻ loi, bấp bênh, nhỏ bé, tầm thường. Cành cây khô ấy phải chăng là một ẩn dụ cho một thi nhân đang bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời?

Nỗi buồn dường như đã không còn, và một niềm vui an ủi nho nhỏ đã diễn ra. Nhưng ở khổ thơ thứ hai, nỗi buồn ấy càng thấm sâu vào cảnh vật.

“Bỏ qua cồn cát nhỏ và gió hiu quạnh
, đi chợ chiều nơi tiếng làng xa vắng.

Những cặp từ tượng hình thong thả, vui thích gợi lên nỗi buồn, cô đơn, lẻ loi. Không gian chợ vốn dĩ tự nhiên tạo nên nhiều thú vị và náo nhiệt. Tuy nhiên, trong thơ ca, hình ảnh chợ xuất hiện không thiếu sự ấm áp, tiếng cười nói, đối thoại, mua bán của đời người. Mọi thứ dường như chìm trong im lặng tuyệt đối, không gian cũng như mở rộng về chiều sâu và bề rộng.

“Mặt trời lặn, bầu trời đang lặn, trời sâu,
sông dài, trời rộng, bến tàu lẻ loi”

Nghệ thuật tương phản kết hợp với phép tu từ nhân cách hoá làm bộc lộ chiều kích vô tận của không gian. “Sâu cao chót vót” gợi lên một sự quyến rũ sâu sắc và bất tận. Càng rộng, càng lên cao và càng vào sâu, cảnh càng hiu quạnh, buồn bã. Sông dài nhưng bờ cô đơn, nhưng nỗi buồn mở rộng không gian, thấm sâu một nhịp thở.

Tiếp nối dòng cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba khắc sâu nỗi buồn tuyệt đối.

“Bạn đi đâu?”
Không có lối đi qua đường .
Không cần thiết phải gợi lên sự thân mật.
Lặng lẽ bãi xanh gặp bãi vàng.

Hình ảnh bèo tấm gợi lên sự bấp bênh và bồng bềnh. Những cánh bèo bồng bềnh là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống nhỏ bé, hiu quạnh và hỗn độn thời bấy giờ, không nơi nào bám víu, không nơi nào để quay về. Con sông này bao la, dài rộng, và vẫn còn đó một tia hy vọng về những kết nối với con người, dù bạn có muốn, bởi vì những cây cầu là vô hình trừ khi có con thuyền đi qua. Mọi thứ dường như đi ngược lại với lòng người, và tình yêu cuộc sống, tình người muốn ở lại chẳng là gì đối với những con người cô đơn luôn khao khát sự cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia.

Khổ thơ cuối đã khắc họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và nỗi niềm sâu kín của lòng người.

“Một cánh chim vỗ cánh, lớp mây cao vời vợi đẩy đi những ngọn núi bàng bạc,
lòng đất bóng chiều chập chờn trên mặt nước.
Không hút thuốc lúc hoàng hôn cũng nhớ nhà ”.

Những đám mây trắng cao và bầu trời phản chiếu dưới ánh nắng tự nhiên được làm đẹp bằng ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” thể hiện sự chuyển động mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây nhô ra phía trên đường chân trời, tạo thành một dãy núi hùng vĩ, hùng vĩ. Giữa không trung là một chú chim nhỏ, ẩn mình một mình trong bóng chiều tà. Hình ảnh tương phản giữa đôi cánh của chú chim nhỏ và vũ trụ bao la, hùng vĩ càng làm nổi bật thêm vẻ u buồn của thiên nhiên bao la rộng lớn.

Trước cảnh sắc thiên nhiên, nỗi nhớ quê hương của nhà thơ càng da diết, da diết.

“Trái tim của đất nước nổi trên mặt nước.
Không hút thuốc lúc hoàng hôn cũng nhớ nhà ”.

Trong bài thơ, Đường Thi còn viết:

“Tam đại cao nguyên Thị
Yến, Thượng Quan Nhật Bản, Mộ người sầu bi”.

Ngắm nhìn sóng biển, Thôi Hiệu thấy nhớ quê da diết. Trong “Trường Giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận thường trực, dai dẳng và da diết hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không phải vì một niềm khao khát vẫn còn ‘lung linh’ trong trái tim nhà thơ, mà đó là sự thể hiện tình yêu đất nước và lòng yêu nước nói chung của ông.

Có thể thấy được sự pha trộn hài hòa giữa chất thơ cổ điển và hiện đại trong Đường Thi, đậm nét nhưng vẫn rất Việt Nam, qua những con thuyền trên nóc nhà, những chiếc lục lạc lững lờ trôi, những cành khô chìm trong suối….

4/ Phân tích Tràng Giang học sinh giỏi chuyên văn

Nhắc đến Huy Cận, người ta nghĩ ngay đến một “hồn thơ hư ảo” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ông đã góp phần tạo nên cái tôi cô đơn và buồn bã, u uất thế tục, cho nền thơ đương đại trước dòng chảy của cuộc đời. Ông đã pha trộn nét cổ điển và hiện đại, gửi gắm cảm xúc ấy trong nhiều bài thơ, trong đó có Tràng Giang. Đoạn thơ trong tập Lửa thánh (1940) là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách thơ của Yu Kang.

Phân tích tràng giang chuyên văn
Phân tích tràng giang chuyên văn

Vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, một sinh viên trường Cao đẳng Nông nghiệp đạp xe dọc theo bờ sông Hồng đến Baichem, phía nam sông. Trước những con sóng lớn, anh không thể dừng lại. Cảm thấy buồn, cô đơn và nhớ nhà, anh đã viết bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã nói về xuất xứ của bài thơ như vậy. Ban đầu, tác phẩm có tên là Chiều trên sông, nhưng sau đổi thành Tràng Giang. Tiêu đề này truyền đạt nhiều ý nghĩa hơn. “Chang Chang” là một từ Hán Việt cổ, trang trọng có nghĩa là sông dài. Tuy nhiên, nhà thơ không sử dụng ‘sông Dương Tử’ (cùng nghĩa) để thay thế. Bởi vần ‘ang’ giúp nhan đề gợi âm hưởng vang xa và gợi cảm giác sông rộng cũng như dài. Việc thêm chú thích cho “Bang em đi trời nhớ sông dài” làm rõ hơn sắc thái tình cảm chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi niềm của con người trước một không gian bao la, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.

Và quả thật, trước một con suối như thế, nhà thơ không giấu nổi nỗi niềm và gieo rắc nỗi buồn ấy ra khắp vũ trụ, bao trùm lên toàn vũ trụ.

Sóng lăn tăn qua sông nhắn buồn.
Những con tàu xuôi ngược dòng sông bên nhau. Con tàu
về quê buồn trăm phương
. Vài hàng củi, cành chết khô rụng.

Cánh diều đầu tiên mở ra khung cảnh bao la rộng lớn tương phản rõ rệt với những thứ nhỏ bé như sóng biển, con tàu và cành cây khô. Những điều này cũng gây ra nỗi buồn lớn theo sóng. Gợn sóng, điệp điệp buồn, dòng nước song song, nỗi buồn trăm phương, nỗi buồn mất mấy dòng sầu trải dài trên sông. Ở đây có điều gì đó nhưng mọi thứ không liên kết với nhau, đặc biệt là con tàu và con nước, hai bản chất không thể tách rời nhưng sự trở về của con tàu, con nước dường như đã chia đôi nỗi buồn đau thành trăm mối. Tuy nhiên, điểm nhấn nổi bật nhất của cánh diều chính là hình ảnh củi và cành khô. Những thứ vốn đã vô hồn và trôi trên sông mà không có mục đích miêu tả nỗi buồn theo nghĩa hiện đại. Hơn nữa, mất một vài dòng không chỉ là buồn,

Ở khổ thơ thứ hai, góc nhìn của nhân vật trữ tình còn đi xa hơn, cảnh sông nước hướng về một cồn cát nhỏ, bầu trời, và toàn bộ dòng sông.

Những vần thơ cô đơn, chút gió hiu hiu
, đâu tiếng làng đi chợ chiều
nắng lặn, trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, bến vắng.

Nhưng không gian dường như không có nhiều thay đổi, thậm chí hai từ tịch mịch và hiu quạnh diễn tả sự tĩnh lặng, tĩnh lặng và cô quạnh. Có âm thanh của cuộc sống ở đâu đó (hoặc hư không)? Ngay cả khi có, âm thanh của một ngôi làng xa chợ chiều sẽ làm trầm thêm sự im lặng mà không làm cho nó đông đúc hơn. Vì vậy, chung quanh là mặt trời trên trời, sông trước mặt, cái gì ở dưới, cái gì ở trên, cái gì dài rộng như xa, và bây giờ chỉ có cái là xa hơn. Sự sáng tạo từ chiều sâu đã khiến không gian như ba chiều và lan tỏa khắp vũ trụ bởi người nghệ sĩ miêu tả khoảng cách giữa bầu trời và dòng sông theo chiều cao và chiều sâu. Chỉ khi chỉ còn lại một mình, ta mới biết nỗi buồn lan tỏa khắp mọi không gian và nỗi cô đơn cứ thế lớn dần lên.

Rồi mắt nhà thơ tiếp tục tìm kiếm. Nhân vật trữ tình dường như “đảo lộn” ở đâu đó trong cuộc sống của con người.

Nước đi đến đâu
chẳng bến phà,
chẳng muốn thân tình
Bãi xanh vắng lặng gặp bãi vàng

Lần này xuất hiện hình ảnh chú vịt quen thuộc. Trong thơ cổ, nó là hiện thân của kiếp người lênh đênh giữa dòng đời. Tuy nhiên, không có bèo xếp như ở đây, chỉ có bèo thôi. Ừ, không biết có bao nhiêu đường rong biển như vậy, cứ loanh quanh hết con này đến con khác? Cảm giác xót xa, bơ vơ, mất mát của cả một thế hệ không biết sẽ đi về đâu chứ không riêng một cây khô nào? Hình ảnh bài thơ tuy giản dị nhưng chất chứa bao cảm xúc của con người lúc bấy giờ. Vì vậy, khi tôi nhìn xung quanh, nó rất lớn và không có dấu hiệu của sự sống. Những thông điệp tiêu cực khiến mọi người trở nên kín đáo hơn ở đây. Không có phà, không có cầu, dù chỉ một chút thân tình cũng khó. Vì vậy chỉ có thiên nhiên mới tiếp xúc với thiên nhiên. Hai chữ lặng lẽ có chút buồn khi nhìn dòng sông từ trên xuống dưới, xa và gần, nhưng tất cả chỉ còn lại bờ xanh và bãi vàng. Vì vậy, không gian tiếp tục thêm vào sự rộng lớn bao la của nó. Sự cô đơn và nỗi buồn của mọi người không có dấu hiệu giảm bớt theo cả hai hướng.

Cả ba khổ thơ đều miêu tả một không gian vô định và vô biên, với những bức tranh thiên nhiên mang hương vị cổ điển và những nét chấm phá hiện đại, độc đáo. Nỗi buồn, đủ thứ để chứa đựng nỗi cô đơn vô tận của lòng người. Bạn đặt bao nhiêu hy vọng vào nỗi đau khổ cuối cùng của mình để bản ngã của bạn vơi bớt lo lắng. để cho:

Mây cao chồng chất cao, núi bạc
nâng lên, chim vẫy cánh: Bóng chiều
Lòng một miền quê rung rinh
Em mong không khói hoàng hôn.

Cảnh vật thiên nhiên lại thay đổi nhưng lần này không phải là dòng sông êm đềm tráng lệ như trên mà là sự hùng vĩ, tráng lệ của bầu trời chiều làm nền. Nhà thơ đã vẽ nên bầu trời bằng những đường nét và màu sắc sống động, sử dụng chất liệu thơ cổ quen thuộc như mây và chim. Nó từng lớp từng lớp mây bạc nhô ra trên bầu trời như một ngọn núi. Đặc biệt, việc nghiêng cánh của một con chim được coi là khoảnh khắc ghi lại chuyển động của hai vật thể. Không biết là cánh chim nhỏ có nghiêng một chút, bóng chiều buông xuống, hay bóng chiều buông xuống đè nặng trên cánh chim. Nhưng giây phút chung sống này đã gây ra sự thay đổi rất nhanh cả về không gian và thời gian. Và một lần nữa tâm trí con người không thể chống lại sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có đổi thay, dù hùng vĩ bao nhiêu thì lòng nhà thơ vẫn trống trải. Nhưng lần này, cô đơn quay về nhà. Quá nhiều cảnh trên trời dưới sông đều là những cảm xúc đầy tâm trạng. Trong nguyên ngữ chính gốc này của nhà thơ, nỗi nhớ quê da diết được khắc sâu vào chữ ‘nước lớn’. Bao nhiêu muộn phiền rồi trào dâng nỗi nhớ quê hương? Nhưng lạ thay, dù ở quê nhưng tôi vẫn nhớ quê da diết. Nhưng quê hương đã không còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ nhà thơ mới trước những điều kiện của quê hương lúc bấy giờ. Không cần đến những con sóng hoàng hôn như thi sĩ thời Đường mà Thôi Hiệu gợi nỗi nhớ quê hương, cảm giác xa nhà, cảm giác “không nhà” được bồi đắp.

Đọc xong bài thơ để lại hai ấn tượng. Đó là không gian vô tận, vô tận của ngoại cảnh và là nỗi buồn cô đơn vô hạn của tâm hồn con người. Cả hai dường như có cùng một trái tim, nên càng rộng, càng to, càng buồn, càng đơn độc, dường như chất thơ càng chất chứa nỗi sầu ngàn năm. Tuy nhiên, trên tất cả, phong cách độc đáo và thanh lịch qua lại giữa kinh điển và hiện tại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên buồn nhưng đẹp đẽ. Nhưng người đọc vẫn thấy một tình yêu quê hương thầm kín được thể hiện ở Tràng Giang.

5/ Phân tích Tràng Giang học sinh giỏi khổ 1 4

Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ của nỗi buồn man mác. Hồn thơ của ông trước cách mạng trĩu nặng nỗi sầu muộn của thời cuộc. Tràng Giang   là bài thơ nói lên nỗi niềm không nguôi của một thi nhân đi trước cuộc đời. Đằng sau nỗi buồn ấy ẩn chứa một tâm sự thầm kín và lòng yêu nước.

Phân tích tràng giang khổ 1 4
Phân tích tràng giang khổ 1 4

Tên bài thơ gồm hai âm “ang”, một âm mở gợi sự bao la, rộng lớn. Không gian sông hiện ra không chỉ là dòng sông chung chung, mà còn là dòng sông lớn trên phạm vi vũ trụ. Không chỉ vậy, cách sử dụng từ Hán Việt đã tạo cho bài thơ một âm hưởng cổ kính, khái quát.

Không phải tất cả các tác phẩm đều có tiêu đề. Khi một đề xuất xuất hiện, đó thường là một đề xuất có ý nghĩa bao hàm toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước bài thơ   Tràng giang   là lời tựa do chính Huy Cận viết.

Khao khát trời rộng, nhớ sông dài.

Câu thơ này chính tựa đề gợi nhớ đến một không gian vũ trụ bao la rộng lớn mở ra theo cả chiều rộng và chiều cao. Người ta cảm thấy bơ vơ, lạc lõng trước không gian ấy, đó cũng là cảm xúc của những thi nhân mấy đời trước. Đoạn tiêu đề đã gợi lên cảm xúc chung của bài thơ.

Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ đầy nỗi niềm.

Sóng lăn tăn qua sông nhắn buồn.
Con thuyền đi dưới dòng nước song song.
Tàu về quê
lại buồn. Một vài hàng củi, cành cây khô đã mất.

Sóng lắc lư theo hướng gió, và không gian hoàn toàn im lặng. Tuy nhiên, ở đây không chỉ ẩn chứa một thiên nhiên mà còn ẩn chứa một ‘thông điệp buồn’ là tâm trạng con người    . Nỗi buồn không được nhìn thấy nữa, mà được nhìn thấy qua chữ ‘nhắn’. Từng lớp, từng lớp, từng lớp, từng lớp, từng lớp, nỗi buồn ấy thấm dần và lan tỏa trong lòng người. Điều nổi bật trong không gian là hình ảnh con thuyền đang lững thững trên nóc nhà. Giữa dòng sông, con thuyền trở nên nhỏ bé, lẻ loi như bóng người. Hãy thể hiện điều kiện đầu hàng trong “Up to the Roof  ” và để nước chảy xiết. Đó cũng là khí thế của dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. Con tàu tiếp tục trôi, và nó tiếp tục quay trở lại, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho những người ở lại. Đó là nước. Và một cành cây khô trơ trọi trơ trọi thực sự xuất hiện. Phép đảo ngữ “củi” được đảo ở đầu câu nhằm nhấn mạnh rằng nó không chỉ vô nghĩa, tầm thường mà còn là cảnh một thân cây khô héo trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh ‘củi khô’ là hình ảnh ẩn dụ về kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa cuộc đời vô định. Đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho cái tôi bơ vơ lạc lõng trong Thơ Mới.

Huy Cận chuyển điểm nhìn của mình đến gần bãi biển và cồn cát trước mặt. ‘Một Chút Thơ Và Ngọn Gió Cô Đơn’   là một hình ảnh rất chân thực ở bãi giữa sông Hồng, hai từ ‘tự do’ và ‘buồn tẻ’ được ghép lại gợi cảm giác thưa thớt, hoang vắng và hiu quạnh. Trong không gian ấy, người nghệ sĩ cố gắng tìm kiếm hơi ấm của cuộc sống và tiếng chợ búa từ xa, nhưng ‘ở đâu’ đó, không gian đó là sự tĩnh lặng tuyệt đối. Nỗi buồn càng được nhấn nhá khi không gian mở rộng đến vô cùng và khi chiều tà, sông dài, trời rộng kết hợp với điệp từ “lắng sâu” như mở rộng không gian ra ba phía. rộng, cao, sâu. Nó lột tả sự cô đơn, sự yếu đuối đến tột cùng của con người trước vũ trụ.

Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, hướng về vô cùng, thu lại.

Hàng đàn vịt trôi hết hàng này sang hàng khác?
Không có
lối đi qua đường . Không cần thiết phải gợi lên sự thân mật.
Lặng lẽ bãi xanh gặp bãi vàng.

Những cánh trôi theo đuổi nhau không mục đích, dòng chảy cũng chẳng có mục đích hay phương hướng như cuộc đời của những con người nhỏ bé và cô đơn lúc bấy giờ. Không có một chuyến phà nào qua sông giữa không gian sông nước mênh mông. Con tàu không chỉ là phương tiện chở người, nó còn là phương tiện gắn kết tình cảm. Nhưng mọi thứ đã bị phủ nhận hoàn toàn.  Một, không hỏi   , một chút tình đời, tình người vẫn còn đây.

Khổ thơ cuối vẽ nên một bức tranh không gian nhiều tầng,   “Lớp mây cao đẩy núi bàng bạc / Chim chắp cánh nhỏ, bóng chiều tà”   . Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh nắng càng thêm hùng vĩ và hùng vĩ. Động từ “nhô ra” dùng để chỉ những đám mây dày đặc tạo thành một dãy núi kỳ vĩ. Và giữa bầu trời là một con chim nhỏ cô đơn, như bị nuốt chửng bởi không gian. Trước cảnh thiên nhiên hiu quạnh, vắng lặng, nỗi nhớ quê hương bỗng da diết, dữ dội.

Lòng quê xao xuyến theo dòng nước.
Không có khói vào lúc hoàng hôn và chai nước hoa.

Câu thơ ấy làm ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu     . Tuy vừa là nỗi nhớ quê, vừa là nỗi buồn nhưng Yukang lại có cách thể hiện rất mới mẻ và kỳ dị. Đất nước trái tim dường như đang đập thình thịch, càng ngày càng mạnh, trong lòng như muốn lan tràn theo từng đợt sóng. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, trường tồn. Đây cũng là một biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.

Công trình là sự pha trộn hài hòa giữa cổ điển và hiện đại tạo nên bức tranh thiên nhiên bao la, hiu quạnh. Qua đây thể hiện cái tôi lẻ loi, lạc lõng, nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cũng thể hiện một lòng yêu nước cẩn trọng nhưng sâu sắc.

6/ Phân tích Tràng Giang khổ 1 2 ngắn gọn

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới, thơ ông có bản sắc, giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội và triết học. Thơ Huy Cận buồn sâu thẳm, miên man, hư ảo, hiu hắt. Nỗi buồn của “đêm mưa”, nỗi buồn của “kẻ lữ hành”, nỗi buồn của “cửa hàng giá cao”, “trời rộng sông dài”. Tràng Giang là bài thơ nổi tiếng sáng tác năm 1939 của Huy Cận, đăng lần đầu trên báo Ngày Nay và sau đó được in trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ mang đậm phong vị Đường luật. Đó là bài thơ lấy cảm hứng từ cảnh sông nước lớn sông Hồng. Huy Cận nói: Tôi thích đến khu Chèm vào mỗi chiều chủ nhật để ngắm cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Cảnh đẹp sông nước gợi nhiều cảm xúc trong tôi.

Chú thích “Ta nhớ trời rộng, ta nhớ sông dài” tóm tắt toàn bộ chủ đề của bài thơ với một nỗi niềm mà không ai có thể diễn tả được khi đứng giữa biển trời bao la, rộng lớn. trời đất bao la. Chất thơ tỏa ra vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, đó cũng là nét đặc trưng của thơ Huy Cận.

Đoạn thơ mở đầu bằng cảnh sông nước, khổ thơ đầu gợi cho người đọc cảm giác sông sâu chất chứa bao nỗi niềm.

Sóng lăn tăn qua sông nhắn buồn.
Những con tàu xuôi ngược dòng sông bên nhau. Con tàu
về quê buồn trăm phương
. Vài hàng củi, cành chết khô rụng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ này thể hiện rất rõ ở bốn dòng đầu. Hàng loạt các từ “buồn”, “buồn”, “lạc mấy dòng” kết hợp với các từ “điệp”, “song song” được giải thích đầy đủ ở cuối hai câu thơ chứa đựng nhiều sắc thái của thơ Đường Thi. Nỗi niềm và nỗi niềm bất tận của nhà thơ. Phía trên dòng sông gợn sóng có hình ảnh “con tàu trên nóc” đang chìm trong động tĩnh, nhưng sao người đọc vẫn cảm nhận được sự tĩnh lặng, bao la của thiên nhiên, của một dòng “trang giang” dài? Bao la và vô tận. Sông dài vô tận, lòng người chất chứa bao nỗi niềm khôn tả. Hình ảnh ‘tàu’ và ‘nước’ có nhau, nhưng Huy Cận lại xa vời.

Hwichan, người đã gửi gắm nỗi buồn của mình vào câu cuối cùng, “Tôi quên vài dòng trên cành cây đã chết”, thể hiện sự cô đơn bằng cách kết hợp sự đảo ngược với những từ được chọn lọc cẩn thận và bị lạc trước khung cảnh rộng lớn. , lớn. “Một” tượng trưng cho sự cô đơn, lẻ loi, “cành khô: gợi sức sống héo mòn, để lại thân thể trơ trụi, khô héo,“ lạc lõng ”mang theo những nỗi buồn bất định và hướng về sự trống trải bồng bềnh,“ vài dòng ”thể hiện dòng chảy của hư vô ban tặng. .Hình ảnh cành khô trôi mãi khiến người đọc thấy trống trải, cô đơn đến lạ lùng và thể hiện một kiếp người dài đằng đẵng. , đang trôi trong nhịp sống hối hả.

Câu 2 dường như muốn nhân đôi nỗi cô đơn.

Cô đơn thơ nhỏ, gió hiu quạnh
, Còn đâu tiếng làng, xa chợ chiều?
Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm.
Sông dài, trời rộng, bến vắng.

Hai câu thơ đầu phản ánh khung cảnh đìu hiu, buồn bã của một làng quê nghèo, thiếu sức sống. Với âm thanh của gió thổi, hình ảnh của ‘rượu nhỏ’ là ‘cùn’. Nhà thơ không khỏi đặt câu hỏi tại sao chợ chiều còn chưa nghe, hay sao chợ ở đây buồn hiu quạnh. Từ “nơi” đến với tôi cô đơn không chút lưu luyến. “Sông dài, trời rộng, bến vắng”, khung cảnh hiện ra qua đoạn văn của Huy Cận thật hoang vu và ảm đạm, bến tàu không có bóng người qua lại, không có tiếng cỏ cây. Chỉ có tiếng người thở, đất trời bao la, hiu quạnh. Ở hai dòng cuối của bài thơ, người nghệ sĩ đã mượn “trời” và “sông” để miêu tả cái mênh mông vô tận của đất trời. của lòng người. Silk House không dùng bầu trời cao để đo chiều sâu mà là bầu trời ‘sâu thẳm’, một nét tinh tế và riêng biệt trong thơ Huy. Câu cuối của đoạn văn như đã nói lên tất cả, nó nói lên tất cả nỗi buồn sâu kín mà nhà thơ phải thốt lên ‘cô đơn’ vì không biết tâm sự cùng ai.

Ở khổ thơ thứ ba, người nghệ sĩ đi tìm hơi ấm của đất trời bao la rộng lớn nhưng cảnh sắc thiên nhiên không như con người mong đợi.

Bạn đang trôi dạt về đâu?
Nó rất lớn mà không có phà nào băng qua nó.
Không đòi hỏi một chút thân tình,
bờ xanh lặng lẽ gặp bãi vàng.

Đọc xong câu 3, người đọc cảm nhận được sự thay đổi, vận động của thiên nhiên, không còn buồn tẻ như câu 1 và câu 2. Từ “thoát” đã mô tả một cách tinh tế sự chuyển đổi. Tuy nhiên, dù có liên quan đến hình ảnh của ‘Beo’ nhưng ‘Beo’ vốn dĩ vô định, lang thang không nơi nào để gắn, cứ lặng lẽ lang thang ‘đi đâu’ mà không biết sẽ đi về đâu. Tôi không biết sẽ đi đâu và mất bao lâu. Không có con tàu nào trong vùng biển rộng lớn. Người nghệ sĩ chờ phà để khẳng định sự sống tồn tại, nhưng điều đó dường như là không thể.

Khả năng cảm thụ và kỹ năng viết của tác giả đạt đến cao trào ở đoạn cuối, các dấu chấm được sử dụng rất tốt.

“Lớp mây cao đẩy núi bàng bạc,
chim nghiêng cánh: bóng chiều.
Lòng quê gợn sóng,
khói chiều tà không nhớ nhà ”.

Sự đột phá của hình ảnh ‘mây cao’ và ‘Eunsan’, giống như thơ Đường, làm sâu sắc thêm nỗi cô đơn, nỗi buồn. Cánh chim bay và bóng chiều tà là hình ảnh người nghệ sĩ hình dung về cái vô hình. Bạn không thể nhìn thấy bóng tối, nhưng bạn có thể tưởng tượng ánh nắng chiều đang từ từ rơi qua ngòi bút và đôi mắt của người nghệ sĩ. Nơi đây từng lớp mây đón nắng chiều khiến cả bầu trời đẹp lộng lẫy. Một chú chim nhỏ xuất hiện giữa khung cảnh. Một cánh chim bay bổng giữa những đám mây cao đẹp đẽ và hùng vĩ, như muốn nhấn mạnh sự nhỏ bé của mình. Cô đơn giữa đất trời bao la như hồn người thơ bơ vơ giữa cuộc đời.

Hai dòng cuối của bài thơ chứa đựng nỗi nhớ quê hương của người viết, nhà thơ không khỏi bồi hồi, không biết gửi vào đâu cho hết những cảm xúc ấy. Hai từ ‘mềm mượt’ gợi lên bao nỗi nhớ da diết của nhà thơ khi đứng trước khung cảnh hoang vắng lúc chiều tà. Cụm từ này nhằm thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ khi đứng trước một dòng sông chênh vênh. Sự vắng bóng của làn khói lúc chiều tà tuy những yếu tố ngoại cảnh không có ảnh hưởng trực tiếp nhưng nó vẫn gợi lên trong lòng thi nhân nỗi nhớ quê da diết. Câu thơ cuối như bộc lộ những tâm tư, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm trong suốt bài thơ. Huy Cận luôn có một tình yêu đất nước sâu sắc, một nỗi nhớ quê da diết khôn nguôi.

Tràng Giang của Huy Cận là một bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực với phong cách cổ điển, bài thơ Tràng Giang của Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên ảm đạm và hiu quạnh. Nó miêu tả cảm xúc của những người cô đơn và cô đơn, tình yêu của họ đối với đất nước của họ, và niềm khao khát chân thành và sâu sắc của Yu Kang đối với đất nước của họ. Với hình thức bài thơ mang phong cách thời đại, kết cấu mạch lạc, khả năng ngôn ngữ sáng tạo và hình tượng nghệ sĩ, bài thơ hiện lên như một bản giao hưởng trong đó các nốt nhạc hòa quyện với nhau. Sức mạnh để hát một bài ca yêu thiên nhiên đất nước. Nhà thơ Xuân Diệu viết: Tràng giang là quốc thơ mở đường cho tình dân tộc.

Bài thơ Trường ca là một bài thơ đặc sắc trong cuộc đời thơ của Huy Cận. Kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa cổ điển, bài thơ này thể hiện sự cô đơn, lẻ loi của con người và tình yêu quê hương đất nước bằng cách miêu tả thiên nhiên buồn bã và cô đơn. , hướng về quê hương da diết, sâu nặng của nhà thơ. Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

7/ Phân tích Tràng Giang bèo dạt về đâu

Hoài Thanh nói về nhà thơ mới năm 1930: Với Xuân Diệu. Nhưng động tiên sinh đóng lại, tình yêu ngắn ngủi, điên cuồng tỉnh lại, nhiệt huyết vẫn bất lực. Đáng buồn thay, tôi đã trở lại tâm hồn với Wicken ”. Mỗi nhà thơ có một phong cách riêng. Huy Cận là một nhà thơ lớn với những ca từ đầy nỗi niềm trần thế. Bài thơ ‘Jangjang’ là một bài thơ độc đáo và thể hiện nỗi buồn con người của Hui Kang vào thời điểm đó.

Phân tích tràng giang bèo dạt về đâu
Phân tích tràng giang bèo dạt về đâu

Huy Cận là một trong những nhà thơ mới của giai đoạn 1930-1945. Nếu Xuân Diệu đa tình, thì Huy Cận lại chìm trong những nỗi niềm trần thế. ‘Jjangjang’ là bài thơ tiêu biểu và độc đáo nhất được trích từ tập ‘Lửa thiêng’ (1940). Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chăm sông Hồng nhìn ra khung cảnh thiên nhiên sông nước, nghĩ về cuộc đời mà dựng nên một “cảnh ngụ tình”. Thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của thiên nhiên và nỗi niềm của nhân gian.

Ngay từ đầu, thơ Huy Cận đã đưa ta đến với một trong số ít những nét đẹp kinh điển mà ta chỉ có thể cảm nhận được khi đến với Hay. ‘Jjangjang’ là tiêu đề của bài thơ, Sông Lớn, Sông Dài. Nhưng tại sao tác giả lại sử dụng “jjangjang” thay vì “tzuongjang” ở đây? Vần của ‘Jjangjang’, ‘Ang’, tạo ra một âm vang và thể hiện nỗi buồn lan tỏa khắp bài thơ. Ngay cả lời tựa “Nâng cao trời nhớ sông dài” đã mở ra một không gian rộng lớn “trời rộng, sông dài” và nỗi niềm sâu lắng “Em xin lỗi” đang hiện ra trước mắt.

Sóng lăn tăn qua sông nhắn buồn.
Những con tàu xuôi ngược dòng sông bên nhau. Con tàu
về quê buồn trăm phương
. Vài hàng củi, cành chết khô rụng.

Ở khổ thơ đầu tiên, bạn bắt gặp những hình ảnh cổ điển chỉ có thể có trong thơ cổ. “Yonggang”, “lê”, “cây và cành khô”… cởi mở với họ. Chúng tôi có rất nhiều không gian. “Message” đề cập đến không gian chiều rộng, “song song” đề cập đến không gian chiều dài. Đó là một không gian rộng lớn, nhưng yên tĩnh đến lạ lùng. Bao trùm lên cảnh vật là nỗi buồn, trong đó một ‘điệp ngữ’ của nỗi buồn trải dài, hình ảnh con tàu giữa dòng nước ‘song song’ cũng thật thanh thản. “Thuyền” và “nước” là hai hình ảnh quen thuộc trong thơ ca, còn ngoài đời chúng luôn gắn liền với nhau và không thể tách rời. Tuy nhiên ở đây tác giả cho thấy sự ngăn cách của con thuyền và dòng nước. “Thuyền về” và “Nước về” gọi là sự chia ly, sự chia ly hờ hững. Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện rõ nhất ở câu thơ cuối “Củi mấy cành khô”. “Củi” là một hình ảnh nhỏ bé, mong manh, vô tình lang thang giữa dòng sông rộng không biết sẽ chảy về đâu. ‘Củi’ vốn đã nhỏ nay lại càng nhỏ hơn khi ghép với số lượng từ ‘một’, và người nghệ sĩ dường như muốn nhấn mạnh thân phận nhỏ bé của mình lênh đênh giữa cuộc đời. Nỗi buồn cô đơn cho thời đại.

Nỗi buồn của nhà thơ leo thang và đạt đến cao trào ở khổ thơ thứ hai.

“Bỏ qua cồn cát nhỏ, gió hiu quạnh
Chiều về nơi tiếng làng dời chợ,
mặt trời lặn, trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, cô đơn”.

Bức tranh thiên nhiên sông nước sinh động hơn một chút khi có thêm những “cồn cát nhỏ”. Cái gò nhô lên giữa sông chẳng khác gì ‘thơ mộng’, khi có gió thổi tạo nên sự cô đơn đến đơn sơ, ảm đạm và ‘hiu quạnh’. Gió không ồn ào, không lặng lẽ nhưng đứng trước một không gian hoang vắng dường như nỗi niềm của nhà thơ càng nhân đôi.

Bất chợt, tiếng ‘chợ chiều’ vang lên. “Chợ” là nơi mà chúng ta biết rằng cuộc sống ở đây đầy đủ và không bận rộn khi chúng ta đến đó. ‘Where’ mang lại cảm giác mơ hồ về việc liệu âm thanh có ở đó hay không. Người nghệ sĩ chỉ có thể nghe, không cảm nhận được và không thể nhìn thấy. Âm thanh cũng bị mờ, vừa thật vừa giả. Tiếng đàn tưởng như làm vui lòng người nhưng cũng khiến người nghệ sĩ càng thêm hiu quạnh, cô đơn nơi quê nhà.

“Mặt trời lặn, trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, bến cô đơn”

Nỗi buồn không chỉ xé nát không gian, mà còn trải dài trong thời gian vô tận. Không gian mở cho các kích thước khác nhau – chiều cao, chiều sâu và chiều rộng. “Mặt trời lặn” và “bầu trời lên” được tách ra thành hai hướng ngược nhau “lên” và “xuống”. Đây là cảm giác chúng ta chỉ có thể cảm nhận được khi đến với người hiện đại. Không gian mở rộng không chỉ về chiều rộng và chiều cao mà còn cả chiều sâu. Khi mặt trời lặn, bầu trời càng lên cao, đổ bóng xuống lòng sông sâu “tháp”. Người nghệ sĩ đã sử dụng một từ rất đặc biệt để diễn đạt và cảm nhận độ cao, không phải là “tháp”, mà là “đủ sâu để vươn lên”. Trước vũ trụ bao la và vô tận, con người là một lũ nhỏ cô đơn … “Trời rộng sông dài” Khung cảnh càng lớn, dù bến lớn, con người nhỏ bé đều mang hình ảnh “bến cô đơn”. Bến tàu nhỏ vẫn hiu quạnh. Mọi người cảm thấy nhỏ hơn bao giờ hết.

“Những con vịt nối tiếp trôi dạt về đâu?
Đáng kinh ngạc mà không có tàu vượt qua. Một bãi biển xanh và một bãi biển vàng lặng lẽ gặp nhau
không chút thân mật ”.

Ở đây chúng ta bắt gặp một hình ảnh quen thuộc và gần gũi. Hình ảnh cánh bèo gợi sự chia cắt, xa cách, những cánh bèo trôi “nối tiếp hàng” mà không biết mình sẽ đi về đâu. Đó cũng là số phận của một mảnh đời nhỏ bé, cô đơn sống cuộc đời bấp bênh. Trong không gian rộng lớn ‘bao la’, nhà thơ tìm kiếm niềm vui, nhưng không có bóng dáng của kiếp người, ‘không có con tàu nào qua lại’. “Không tìm kiếm một chút tri kỷ” là không chia sẻ tình yêu của con người, tình yêu của cuộc sống. Chữ “không” như tô thêm nỗi buồn cô đơn, chỉ có “bãi xanh bên bãi vàng”, nhà thơ lẻ loi với thiên nhiên lẻ loi. Một lần nữa vũ trụ bị đẩy đến ngày tận thế. hoang vắng, cô đơn.

Nhà thơ mở rộng tầm nhìn, nhìn ở tầm cao và xa, mặc dù không còn một khoảng trống ở tầng dưới.

“Lớp mây cao đẩy núi bàng bạc,
chim nghiêng cánh: bóng chiều.
Lòng quê gợn sóng,
khói chiều tà không nhớ nhà ”.

Tác giả đã vẽ nên một bức tranh cổ điển với hình ảnh ngọn núi xa xăm trước mắt người đọc chỉ với 4 câu thơ cuối, và mây bay là đà của ‘lớp’. Không phải một đàn chim, mà là một con chim nhỏ đơn độc đang “vẫy cánh” dưới “bóng chiều”. Cánh chim lẻ loi lạc lõng, bao nỗi buồn dường như càng đè nặng lên đôi cánh của bầu trời bao la. Khác với những cánh diều lẻ loi, lặng lẽ trước mặt, thiên nhiên cánh diều được khắc họa như một thiên nhiên hùng vĩ, hùng vĩ.

“Trái tim của đất nước đập quanh mặt nước.
Ngay cả khi không có khói vào lúc hoàng hôn, đó là nỗi nhớ nhà. “

Thông điệp về ‘tấm lòng quê’ hay tình yêu thiên nhiên đất nước của nhà thơ đang khiến ‘gợn sóng’ như một làn sóng lớn. Tình yêu quê hương vô bờ bến, dạt dào như chính dòng sông Tương Giang. “Nếu không có khói, hoàng hôn sẽ đến.” Tất cả những gì bạn cần là một hình ảnh nhỏ nhắn gợi nhớ cho những người xa quê. Trong những bóng chiều, đây là lúc lòng người dễ xúc động nhất. Tui Hiếu nhớ quê khi thấy khói hoàng hôn. “Quê hương khuất trong hoàng hôn. / Khói sóng buồn bên sông. cho bất cứ ai ”và sau đó đến với chúng tôi. Huy Cận Không phải xem “Khói Hoàng Hôn” mà lòng vẫn nhớ nhà da diết. Đây là một sáng tạo độc đáo của Huy Cận trong một bài thơ mới.

Bài thơ ‘Jjangjang’ đã vẽ nên một bức tranh hùng vĩ trước mắt chúng ta, gần và xa, cao và sâu, nhưng thật buồn bao trùm không gian ấy. Đó không chỉ là nỗi niềm riêng của người nghệ sĩ mà còn là nỗi niềm của cả một thế hệ đang sống trong cảnh nước mất nhà tan. Với những hình ảnh gần gũi với dòng sông như bến thuyền, những bức tranh do Huy Cận sáng tác vừa mang vẻ đẹp cổ kính vừa hiện đại. Nó nhấn mạnh nét độc đáo của thơ Huy Cận.

8/ Phân tích Tràng Giang bốn câu thơ đầu

Khác với hồn thơ sôi nổi, say mê gắn liền với những chỉnh trang sau Cách mạng tháng Tám. Thơ trước cách mạng của Huy Cận mang nỗi sầu, nỗi buồn đi trước thời đại. Đương nhiên, ‘Jjangjang’, miêu tả sự cô đơn của từng cá nhân trước thiên nhiên rộng lớn, được ra đời. Cùng với nỗi xót xa, xao xuyến trước không gian bao la, thơ còn là nỗi nhớ quê hương da diết.

Bài thơ được sáng tác năm 1939 và lần đầu tiên được in trên báo “Ngày nay”, sau đó là tập thơ “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “thơ mới” thời kỳ đầu.

Ngay khi bạn đọc tiêu đề của bài thơ ‘Jangjang’, bạn có thể hình dung ra những suy nghĩ và cảm xúc mà tác giả chứa đựng. Tiêu đề gợi nhớ về một dòng sông dài, mênh mông và vô tận. Nhưng đằng sau hình ảnh con sông dài lại ẩn chứa một cuộc đời bấp bênh, lang thang và u ám. Câu văn có tựa “Tiếc trời rộng nhớ sông dài” tiếp tục khẳng định nỗi sầu không biết cất lên trữ tình cùng ai trước không gian giảng đường bao la.

Khổ thơ đầu tiên đến với người đọc như một bài giảng buồn chứa đựng nhiều cảm xúc khó tả.

“Sóng gợn những dòng sông nhắn buồn.
Cùng lúc đó con tàu lao xuống dưới nóc sông. Tàu về quê
buồn hiu quạnh
. Mất mấy hàng củi, cành chết khô ”.

Người đọc khổ thơ đầu có thể thấy tâm trạng u uất, buồn bã qua các từ “buồn”, “buồn”, “mất cành khô”. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả dòng trôi, dòng chảy trên mặt sông. Trong khi câu đầu gợi lên những con sóng xa nhau đuổi nhau về phía chân trời thì câu thứ hai lại miêu tả những dòng nước song song lang thang vĩnh viễn về phía mép trời. Trong câu đầu tiên, “wave” là một con sóng nhỏ, cuộn trào. Nhưng gợn đó, Tràng Giang, là một “thông điệp buồn”. Nó hoàn toàn là một ‘thông điệp’ ở mức độ mà nó thể hiện nỗi buồn chất thành từng lớp. Hình ảnh con thuyền “xuôi theo dòng nước song song” gợi cảm giác đơn độc trên dòng nước không bao giờ cạn.

Hai lối đi được kết hợp để tăng chiều rộng và chiều dài của không gian. Tác giả tiếp tục miêu tả cuộc chia tay qua câu 3. Mặc dù “con tàu” và “con nước” về bản chất là hai hình ảnh có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng chúng không còn song hành khi nhìn qua con mắt của nhân vật trữ tình. “Trăm nỗi buồn”, nỗi buồn, nỗi u uất, nỗi buồn tăng lên từng ngày. Ở câu thơ thứ tư, tác giả dùng ngược “củi và cành khô” để nói về sự cô đơn, cằn cỗi của “củi”. Từ cô đơn ‘một’ và vô số từ đầy sức sống của tính từ ‘khô’ làm cho bức ảnh thêm phần héo úa. Người nghệ sĩ độc đáo khi sử dụng nghệ thuật “một” – “một số” để nhấn mạnh sự cô đơn của gánh củi trên sông. “Quên mấy dòng” không chỉ thể hiện nỗi cô đơn của gánh củi mà còn nói về sự trôi nổi, bấp bênh khi “lạc trôi” từ sông này sang sông khác. Đặc điểm nổi bật của đoạn văn này không chỉ là tính song song mà còn là nhịp 1/3/3 của nó. Với sự tạm dừng đó, “củi” xuất hiện “độc lập”, điều này càng làm cho tình trạng cô lập của thứ này trở nên rõ ràng hơn. Có thể nói, hình ảnh ‘cây và cành khô’ đã phần nào thể hiện được tâm tư của một thi sĩ tài hoa còn vất vưởng trong cuộc sống bộn bề. Vì vậy, chỉ khổ thơ đầu tiên đã thể hiện rõ bức tranh một con người buồn bã, ảm đạm. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Đặc điểm nổi bật của đoạn văn này không chỉ là tính song song mà còn là nhịp 1/3/3 của nó. Với sự tạm dừng đó, “củi” xuất hiện “độc lập”, điều này càng làm rõ tình trạng cô lập của thứ này. Có thể nói, hình ảnh ‘cây và cành khô’ đã phần nào thể hiện được tâm tư của một thi sĩ tài hoa còn vất vưởng trong cuộc sống bộn bề. Vì vậy, chỉ khổ thơ đầu tiên đã thể hiện rõ bức tranh một con người buồn bã, ảm đạm. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Đặc điểm nổi bật của đoạn văn này không chỉ là tính song song mà còn là nhịp 1/3/3 của nó. Với sự tạm dừng đó, “củi” xuất hiện “độc lập”, điều này càng làm cho tình trạng cô lập của thứ này trở nên rõ ràng hơn. Có thể nói, hình ảnh ‘cây và cành khô’ đã phần nào thể hiện được tâm tư của một thi sĩ tài hoa còn vất vưởng trong cuộc sống bộn bề. Vì vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên, bức tranh nhân vật buồn bã, ảm đạm đã hiện lên rõ nét. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Vì vậy, chỉ khổ thơ đầu tiên đã thể hiện rõ bức tranh một con người buồn bã, ảm đạm. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Vì vậy, chỉ khổ thơ đầu tiên đã thể hiện rõ bức tranh một con người buồn bã, ảm đạm. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Vì vậy, chỉ khổ thơ đầu tiên đã thể hiện rõ bức tranh một con người buồn bã, ảm đạm. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ. Vì vậy, chỉ khổ thơ đầu tiên đã thể hiện rõ bức tranh một con người buồn bã, ảm đạm. Sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm trạng của nhà thơ.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục với một cảnh buồn, nhưng ảm đạm và thiếu sức sống.

“Bỏ qua cồn cát nhỏ và gió hiu quạnh
, nơi âm u xa vắng chợ chiều
mặt trời lặn, trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, bến tàu. là cô đơn. ”

Huy Cận đã khéo léo sử dụng cả hai từ trong cùng một đoạn văn để miêu tả khung cảnh hoang vắng, hoang vắng ở hai bên bờ sông. Mọi người. Ngọn gió trên ‘cồn cát nhỏ’ thổi bay bầu không khí buồn bã và ảm đạm ở một nơi vắng người và không có sức sống. Thật là hụt hẫng khi không nghe được tiếng ồn ào của chợ chiều. “Where” ám chỉ cảm giác mơ hồ khi không thể xác định được điểm tựa nào để bám vào. Vì vậy, chỉ với một vài nét vẽ của nhà thơ, một đất nước cằn cỗi và thiếu sức sống đã hiện ra. Trong hai đoạn sau, người nghệ sĩ dường như mở rộng tầm nhìn của mình thông qua các biện pháp đối phó là ‘Up to the Sky’, mở rộng chiều cao của không gian, và ‘Sunlight’ với một không gian mở rộng ở giữa. . Các hướng ngược nhau của “lên” và “xuống” tạo ra chuyển động. Khi mặt trời lặn, bầu trời được kéo lên cao hơn. Và điểm nổi bật chính là “độ sâu tuyệt vời”. Không gian mở rộng sâu. “Cao chót vót” là một từ độc quyền khi nói đến chiều cao. Khi chúng ta nói về độ sâu, chúng ta thường sử dụng ‘sâu hoon’ và ‘sâu’ … Gợi nhớ về không gian thăm thẳm là câu nói đặc trưng của Huy Cận, và cũng chính là ở thời điểm đó. Nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ cứ thế bay bổng vô tận. Những góc nhìn thú vị và mới mẻ. Câu thơ cuối nhà thơ dùng không gian rộng lớn để nói về nỗi cô đơn, lẻ loi. “Bến cô đơn” – Buồn và hiếm khi cô đơn giữa mênh mông sông trời. Bức tranh toàn cảnh của khổ thơ thứ hai nhấn mạnh vẻ u ám của cổ kính đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt và không gian bao la, mang màu sắc hiu quạnh, hoang vắng. “Cao chót vót” là một từ độc quyền khi nói đến chiều cao. Khi chúng ta nói về độ sâu, chúng ta thường sử dụng ‘sâu hoon’ và ‘sâu’ … Gợi nhớ không gian sâu bên ngoài cũng là cách sử dụng độc đáo của Huy Cận, Đó cũng là thời điểm. Nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ cứ thế bay bổng vô tận. Những góc nhìn thú vị và mới mẻ. Câu thơ cuối nhà thơ dùng không gian rộng lớn để nói về nỗi cô đơn, lẻ loi. “Bến cô đơn” – Buồn và hiếm khi cô đơn giữa mênh mông sông trời. Bức tranh toàn cảnh của khổ thơ thứ hai nhấn mạnh vẻ u ám của cổ kính đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt và không gian bao la, mang màu sắc hiu quạnh, hoang vắng. “Cao chót vót” là một từ độc quyền khi nói đến chiều cao. Khi chúng ta nói về độ sâu, chúng ta thường sử dụng ‘sâu hoon’ và ‘sâu’ … Gợi nhớ về không gian thăm thẳm là câu nói đặc trưng của Huy Cận, và cũng chính là ở thời điểm đó. Nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ cứ thế bay bổng vô tận. Những góc nhìn thú vị và mới mẻ. Câu thơ cuối nhà thơ dùng không gian rộng lớn để nói về nỗi cô đơn, lẻ loi. “Bến cô đơn” – Buồn và hiếm khi cô đơn giữa mênh mông sông trời. Bức tranh toàn cảnh của khổ thơ thứ hai nhấn mạnh vẻ u ám của cổ kính đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt và không gian bao la, mang màu sắc hiu quạnh, hoang vắng. không có kết thúc Những góc nhìn thú vị và mới mẻ. Câu thơ cuối nhà thơ dùng không gian rộng lớn để nói về nỗi cô đơn, lẻ loi. “Bến cô đơn” – Buồn và hiếm khi cô đơn giữa mênh mông sông trời. Bức tranh toàn cảnh của khổ thơ thứ hai nhấn mạnh vẻ u ám của cổ kính đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt và không gian bao la, mang màu sắc hiu quạnh, hoang vắng. Không có kết thúc. Những góc nhìn thú vị và mới mẻ. Câu thơ cuối nhà thơ dùng không gian rộng lớn để nói về nỗi cô đơn, lẻ loi. “Bến cô đơn” – Buồn và hiếm khi cô đơn giữa mênh mông sông trời. Toàn cảnh khổ thơ thứ hai là một màu hiu quạnh, hoang vắng.

9/ Phân tích Tràng Giang lớp văn Thầy Nhật

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận đã khẳng định tên tuổi của mình trong Phong trào Thơ mới 1930-1945 bằng giọng thơ của mình. Ông quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919, mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi niềm về kiếp người và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật với những tác phẩm tiêu biểu như: “Bài hát của vũ trụ”, “Lời cầu nguyện thánh”. Nhưng sau Cách mạng Tháng Tám, hồn thơ của ông trở nên lạc quan, hứng khởi trước cuộc sống của nhân dân lao động đấu tranh.

Phân tích tràng giang lớp văn thầy nhật
Phân tích tràng giang lớp văn thầy nhật

Vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ u uất của thế sự, những nét thơ tiêu biểu của Huy Cận được thể hiện rất rõ trong bài thơ Tràng giang. Đây là bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được Huy Cận viết khi đứng ở bờ nam bến Chèm bên sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng trĩu nặng một nỗi niềm, chút kiếp người lênh đênh giữa sông nước. cuộc sống bất định. Chất thơ pha trộn giữa u uất và buồn mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, tạo cho người đọc sự thích thú và yêu thích.

Bâng khuâng giữa trời thương nhớ bao đời,
sóng dập dềnh trong sầu … .
Ngay cả khói hoàng hôn cũng không nhớ nhà.

Nhà thơ đã khéo léo khơi gợi vẻ đẹp cổ điển của bài thơ ngay từ nhan đề của nó. “Tràng Giang” là một cách gọi nhầm của Huy Cận. Hai tiếng ‘ang’ nối tiếp nhau gợi lên trong lòng người đọc cảm giác về một dòng sông không chỉ dài vô tận mà còn mênh mông vô tận. Hai chữ Tràng Giang mang một sắc thái cổ điển, tao nhã, gợi nhớ đến dòng Trường Giang trong thơ Đường Thi, dòng sông vĩnh hằng, dòng sông suy tư.

Tứ thơ Tràng Giang mang nét cổ điển như thơ xưa. Các nhà thơ thường ẩn mình sau những con sóng mênh mông, khác với các nhà thơ mới thể hiện cái tôi của mình. Tuy nhiên, nếu như các thi nhân cổ đại hướng về thiên nhiên và mong muốn sự hiệp nhất, đồng cảm thì Hwichan lại hướng về thiên nhiên và bày tỏ những lo lắng, buồn phiền về cuộc đời của một con người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp lôi cuốn của tác phẩm ẩn chứa tinh thần hiện đại.

Câu chủ đề tuy đơn giản, ngắn gọn vỏn vẹn 7 chữ nhưng lại chứa đựng cảm xúc cốt lõi của cả bài hát “thương nhớ trời dài”. Trước bầu trời bao la, sông nước kỳ vĩ, thiên nhiên bao la, lòng người gợi lên những cảm xúc như ‘Em xin lỗi’, ‘Em nhớ anh’. Từ tang được sử dụng rất hay để diễn tả tâm trạng của chủ đề trữ tình: buồn, sầu, cô đơn, lạc lõng.

Và nghe tít tắp không dứt, ‘Con sông dài’ vẫn duy trì một làn sóng đều đặn suốt cánh diều, cứ thế cuộn lên cuộn xuống trong tâm trí nhà thơ, lay động tâm trí người đọc. Và ngay từ khổ thơ đầu tiên, người đọc đã phải đối mặt với những làn sóng lo lắng, buồn bã.

Sóng ầm ầm mang tin buồn,
con tàu xuống mái song song.
Con tàu về nước trăm phương
. Vài hàng củi, cành chết khô rụng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ này thể hiện rất rõ ở bốn dòng đầu. Bắt nguồn từ “điệp” và “song hành” ở cuối cả hai câu thơ, hai từ mang sắc thái cổ kính đậm nét của Đường Thi. Và, chưa kể đến vẻ đẹp của nó, nó chứa đầy những hình ảnh gợi nhớ đến những con sóng lan rộng, lan xa hơn, chồng chất lên nhau, và dòng nước vẫn tiếp tục đi khắp nơi không hồi kết.

Trong “thông điệp” của một dòng sông gợn sóng, dòng nước “song song” của nó là “con tàu trên mái nhà” đang trôi. Cảnh có chuyển động như vậy, nhưng sao tôi chỉ thấy được sự tĩnh lặng, bao la của thiên nhiên, những đường “trang giang” dài miên man, không biết bao nhiêu mà kể. Sông dài vô tận, bao nỗi niềm của con người cũng đong đầy trong lòng.

Con tàu về nước trăm phương
. Vài hàng củi, cành chết khô rụng.

Tàu và nước về bản chất gắn liền với nhau, con thuyền trôi trên dòng nước chảy xiết, nước đụng thuyền. Tuy nhiên, Huy Cận đã nhìn thấy con thuyền và dòng nước xa “con tàu trở về nhà” và buồn bã không biết vì sao. Đó là lý do tại sao nó gợi lên “hàng trăm nỗi buồn” trong lòng mọi người. Số nhiều của từ ‘một trăm’ và từ ‘nhiều’ đã thổi hồn vào bài thơ một nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ rõ ​​nhất qua điệp ngữ độc đáo “Vài dòng lạc trên cành khô”. Huy Cận khéo léo sử dụng phép đảo ngữ kết hợp với những từ ngữ được chọn lọc kĩ càng để diễn tả sự cô đơn, lạc lõng trước một vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự yếu đuối và nhỏ bé, “cành khô” gợi sức sống khô héo và mòn mỏi, “lạc” gợi nỗi buồn bấp bênh, bồng bềnh, đung đưa trong “dòng chảy nhỏ” bao la của thiên nhiên. sự rộng lớn. Một cành cây khô treo lơ lửng ở đâu đó, chứ không phải là một bức tranh, một hình ảnh giản dị, đầy kinh dị khiến tâm trí người đọc trở nên trống rỗng và cô đơn.

Vẻ đẹp cổ điển dày dặn và tài hoa của tác giả ‘vẽ cảnh ngụ ngôn’ gợi ra một làn sóng buồn bã và ảm đạm sẽ tiếp tục ập đến phần còn lại của khổ thơ, để lại cho người đọc sự đồng cảm. , hiểu biết về đặc điểm tâm trạng chung của nhà thơ mới. Nhưng ngoài điều đó ra, chúng ta thấy một vẻ đẹp hiện đại rất thơ mộng của cánh diều.

Đặc biệt, từ “cành khô” không chỉ gợi lên cảm giác đau khổ mà còn bộc lộ không khí trữ tình, cô đơn, mất mát. Nỗi niềm ấy càng được bộc lộ qua hình ảnh lẻ loi giữa không gian lạnh lẽo.

Đâu những vần thơ cô đơn, những cơn gió nhỏ
, tiếng làng xa vắng chợ chiều.

Trong cùng một bài thơ, hai từ “lười biếng” và “vui vẻ” được tác giả sắp xếp khéo léo để tạo nên một khung cảnh tĩnh lặng. ‘Thơ’ chỉ sự nghèo khó, và ‘bệnh tật’ chỉ sự cô đơn. Giữa cảnh ‘Đồi cát nhỏ’, gió ‘thổi vù vù’, một khung cảnh lạnh lẽo, thê lương, con người cô đơn đến choáng ngợp mà thốt lên “Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều. ? “

Những đoạn văn có sắc thái, đều là ‘đâu đó’, âm thanh xa xăm, âm thanh không rõ ràng, có lẽ là niềm khao khát, khao khát một chút hạnh phúc của nhà thơ, cũng có thể là câu hỏi ‘ở đâu’. Các hoạt động, âm thanh của cuộc sống con người. Nó cũng có thể là “từ đâu ra” mà là một phủ định hoàn toàn. Không có gì sống xung quanh đây có thể xua đuổi sự đơn độc của thiên nhiên. Đôi mắt của nhân vật trữ tình dõi theo ánh mặt trời và theo dòng chảy của sông.

“Mặt trời lặn, trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, bến cô đơn”.

“Mặt trời lặn và bầu trời mọc” ngụ ý sự chuyển động, mở rộng không gian và thậm chí là sự tách biệt. Vì mặt trời và bầu trời cách xa nhau. “Sâu cao chót vót” là một cách thể hiện sáng tạo mới của Huy Cận với nét đẹp hiện đại. Con mắt của nhà thơ không chỉ dừng lại bên ngoài bầu trời và mặt trời mà xuyên thấu cả vũ trụ, không gian bao la, vô tận. Thế giới tự nhiên là ‘sông dài, trời rộng’, những gì thuộc về con người là một thứ nhỏ bé và cô đơn mang tên ‘bến tàu cô đơn’.

Vẻ đẹp cổ điển của Cánh diều được bộc lộ qua chất liệu thơ quen thuộc của Đường Thi: dòng sông, bầu trời, ánh sáng mặt trời, cuộc sống con người buồn tẻ và tẻ nhạt trong “chợ chiều”, mọi thứ tan rã, rời rạc. rời bỏ. Nhà thơ lại nhìn dòng sông, nhìn cảnh vật xung quanh, khao khát một điều gì đó thân thuộc sẽ mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm trong giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp lại niềm khao khát ấy bằng một hình ảnh cô đơn, lẻ loi hơn.

Thuyền trôi về
đâu? Một bãi biển xanh và một bãi biển vàng lặng lẽ gặp nhau
mà không cần gợi lên sự thân thiết .

Hình ảnh đám bèo trôi sông là hình ảnh thường thấy trong thơ ca cổ điển, gợi lên cái gì đó bấp bênh, trôi nổi về kiếp người đầy bất trắc giữa cuộc đời. Tuy nhiên, thơ Huy Cận không có một hoặc hai cánh bèo, mà là một “hàng ngang”. Đứng xếp hàng bị thiên nhiên lấn át khiến càng thêm đau lòng và cô đơn.

Bên cạnh những hàng vịt trời, có một ‘bờ biển xanh phía sau Hoàng Hải’ như thể một không gian rộng lớn và vô tận trải rộng ra. , không có sự hài hòa, kết nối:

Rất lớn mà không có phà qua lại.
Nó không yêu cầu một chút thân mật.

Tác giả cung cấp một cấu trúc phủ định. Từ chối hoàn toàn các mối quan hệ giữa con người với nhau “… không… không”. Giờ đây, trước mắt nhà thơ không còn gì gợi lên nỗi niềm muốn thoát ra khỏi nỗi cô đơn bủa vây, chỉ có thiên nhiên bao la, rộng lớn. Những cây cầu, con đò vốn là phương tiện kết nối của con người dường như đã bị thiên nhiên nuốt chửng và trôi dạt đi đâu đó. Huy Cận đã khéo léo vẽ nên những vẻ đẹp cổ điển và đương đại cho những khung trời trên cao.

Những lớp mây cao đẩy những ngọn núi bạc, những
con chim vỗ cánh trong bóng tối

Văn phong ấn tượng thể hiện ‘mây cao đẩy núi bạc’ với ‘tầng tầng lớp lớp’ khiến người đọc tưởng tượng ra những ngọn núi mây trắng soi bóng dưới ánh nắng như dát bạc. Vẻ đẹp hình tượng cổ điển trữ tình và thơ mộng hơn rất nhiều khi được truyền cảm hứng từ bài thơ tứ tuyệt cổ trang của Đỗ Phủ. Một vùng đất của những đám mây nhô ra khỏi cổng.

Huy Cận đã khéo léo sử dụng động từ “đùn” để làm cho đám mây có vẻ chuyển động khi nó dùng nội lực đẩy tầng mây. Đây cũng là đặc điểm thơ toát lên tính hiện đại nhờ vận dụng sáng tạo thể thơ cổ điển quen thuộc. Và tính hiện đại ấy được thể hiện rõ hơn qua dấu hai chấm ở câu thơ tiếp theo.

Dấu hai chấm này gợi ý mối quan hệ giữa con chim và bóng chiều. Con chim nghiêng đôi cánh nhỏ của mình, thu hút bóng tối, và cùng rơi xuống mặt sông, hoặc chính bóng tối, và nghiêng mình với sức nặng trên cánh của những con chim nhỏ. mọi điều. Đó là vì những cụm từ gợi thời gian trong khi miêu tả không gian sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, là những hình ảnh thẩm mỹ miêu tả cảnh hoàng hôn trong thơ cổ điển. Tuy nhiên, trong khung cảnh cổ điển, người đọc gặp một bầu không khí hiện đại.

10/ Phân tích Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông rất khác biệt so với thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám và sau Cách mạng Tháng Tám.

Đó là sự chuyển đổi từ tâm trạng u uất, buồn bã của thời kỳ trước cách mạng gắn với công cuộc đổi mới sang tâm trạng vui tươi sau cách mạng. Bài thơ ‘Jjangjang’ được viết vào thời kỳ trước cách mạng như một nỗi niềm gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của những con người lang thang cơ nhỡ. Bài thơ này để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát những ý chính, cảm xúc của bài thơ. Hai chữ Tràng Giang có thể được miêu tả là một con sông dài, mênh mông và vô tận. Từ Hán Việt này khiến người ta liên tưởng đến thơ Đường ở Trung Quốc. Tuy nhiên, chính dòng sông này lại khơi dậy bao suy nghĩ của người trong cuộc khi muốn kể về những kẻ lang thang, thân phận nhỏ bé trôi trên dòng sông suy tư, sầu muộn.

Như tóm tắt lại một lần nữa tựa đề bài thơ “Em ôm trời rộng nhớ sông dài”, chủ đề bài thơ là nỗi niềm khi đứng giữa dòng sông mà không biết diễn tả như thế nào. Đất trời bao la, rộng lớn. Cả bài thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, đây cũng là nét đặc sắc trong thơ Huy Cận. Khổ thơ đầu tiên mở đầu bài thơ gợi lên một dòng sông chứa chan bao nỗi niềm.

Sóng lăn tăn qua sông nhắn buồn.
Con thuyền đi dưới dòng nước song song.
Tàu về quê  lại buồn.
Một vài hàng củi, cành cây khô đã mất.

Một loạt các từ thê lương “buồn”, “xuống”, “buồn”, và “mất vài dòng” kết hợp với từ “thông điệp”, vì vậy “song song” dường như diễn tả toàn bộ tinh thần. Và nỗi buồn vô hạn, vô tận của người nghệ sĩ trong thời đại quá nhiều bất công. Ở khổ thơ đầu, sự đột phá từ kinh điển xen lẫn hiện đại.

Người nghệ sĩ đã mượn hình ảnh con tàu trên nóc và hơn hết là hình ảnh ‘củi khô’ lênh đênh trên mặt nước vô tận, không trong sáng. Sức gợi của câu thơ thật là khó quên. Những dòng sông dài, những dòng sông mang vẻ đẹp u sầu, thanh thoát, khiến người đọc buồn bã, cô đơn.

Vốn dĩ tàu và nước không thể tách rời nhưng trong câu thơ tác giả viết “Con tàu buồn trăm lần trở về quê hương”. nghe có vẻ buồn Và nghe thật cô đơn.

Nỗi buồn vô tận với dòng sông chảy. Nét nổi bật của cánh diều là ở câu thơ cuối với những hình ảnh cô đơn, nhỏ bé, yếu đuối và “củi” trôi dạt khắp nơi. Có thể nói, bài thơ nói lên tâm trạng chung của các nhà thơ trẻ lúc bấy giờ, một đời sống bươn chải, bươn chải trong cuộc sống bộn bề thường nhật. Ở khổ thơ thứ hai, nỗi cô đơn dường như nhân đôi.

Gió hiu quạnh, lờ mờ cồn cát nhỏ
Chợ chiều nơi xa vắng tiếng đàn
Mặt trời lặn Trời thăm thẳm,
sông dài, trời rộng, bến vắng.

Hai câu thơ đầu phản ánh khung cảnh buồn bã, hiu quạnh, trống trải của một làng quê vô hồn. Đây có phải là quê hương của tác giả? Hình ảnh ‘cồn cát nhỏ’ nơi có thể nghe rõ tiếng gió hiu quạnh bên sông dường như càng làm tăng thêm nỗi buồn cơ bản. Tôi thậm chí không thể nghe thấy tiếng ồn ào của chợ chiều ở phía xa, hoặc có lẽ tôi quá buồn và cô đơn.

Một câu hỏi tu từ gợi nhiều cảm xúc là câu hỏi mà bạn tự hỏi hoặc tác giả. Từ “ở đâu” trở nên cô đơn và không có lý do gì để bám lấy nó. Khung cảnh ảm đạm, hoang vắng của bến tàu buồn vui lẫn lộn, không có người và không có âm thanh.

Hai đoạn cuối tác giả mượn hình ảnh sông trời để miêu tả cái mênh mông vô cùng. Đo chiều sâu bằng cách sử dụng bầu trời, không phải là “cao”, mà là “sâu”, chiều cao thực sự là nét riêng, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh dòng sông mênh mông và từ láy ở cuối đoạn như thể hiện nỗi buồn sâu kín không biết tâm sự cùng ai.

Trong khổ thơ thứ ba, tác giả cố gắng tìm thấy hơi ấm nơi thiên nhiên hiu quạnh này, nhưng thiên nhiên dường như không như những gì con người mong đợi.

Lững lờ trôi hết bãi này đến bến khác dù
qua phà không
hỏi nỗi nhớ,
bãi xanh lặng lẽ gặp bãi vàng.

Ở khổ thơ thứ ba, người đọc như nhận ra sự thay đổi, vận động của thiên nhiên, không còn là sự tĩnh lặng hiu quạnh, hiu quạnh như ở khổ thơ thứ hai. Từ “trôi dạt” đã mô tả sự biến đổi này của tất cả mọi thứ rất tinh tế. Tuy nhiên, từ này liên quan đến hình ảnh của ‘Beo’ khiến tác giả thất vọng ở chỗ ‘Beo’ vốn dĩ không rõ ràng, lang thang khắp nơi, không nơi ẩn nấp, và lặng lẽ lang thang ‘đi đâu’ mà không biết ‘ở đâu’. Tôi không biết mình có thể đến đó bao lâu nữa.

11/ Phân tích Tràng Giang Chu Văn Sơn

Tràng giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người giữa lòng đất nước. Tràng Giang được mô tả trong cuốn sách Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Bài thơ này chắc sẽ tồn tại mãi mãi, vì nó nói về nỗi buồn của một thế hệ, nỗi buồn không lối thoát.

Phân tích tràng giang chu văn sơn
Phân tích tràng giang chu văn sơn

Bốn dòng đầu của bài thơ trong đoạn đầu của tác phẩm là hình ảnh một dòng sông êm đềm và lặng lẽ.

Sóng ầm ầm mang tin buồn,
con tàu xuống mái song song.
Trở về nhà, con tàu
bị mất hàng trăm chỗ đau buồn, củi và vài cành khô.

Câu thơ thứ nhất tái hiện hai hình ảnh thiên nhiên và con người: bức tranh sông nước và “sóng lăn tăn buồn điệp điệp”. Từ “Tràng Giang” không chỉ có nghĩa là chiều dài mà còn có nghĩa là chiều rộng. Dòng sông có từ gợn sóng lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Một bầu không khí thanh bình bao quanh không gian. Người nghệ sĩ nói từ không khí của thiên nhiên đến tâm trạng của con người, có thể nói là nhiều gợn sóng để lại nhiều tiếc nuối. “Một người buồn không bao giờ hạnh phúc”

Từ ‘điệp’ diễn tả một cảm giác nhẹ nhàng nhưng dai dẳng của trái tim. “Con tàu đi dưới dòng nước song song” Con tàu trên nóc nổi bật giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé và hiu quạnh vẫn bị động bất chấp dòng chảy của nước. Ở từ “song song” tác giả sử dụng một cặp từ trái nghĩa trong điệp từ “con tàu đổ bể trăm lần trở về”. Có lẽ đây là khởi đầu của chia ly, trăm mối sầu.

Trong câu cuối cùng của câu 1, một hình ảnh đơn giản và hiện thực là “cây khô”. Nghệ thuật đảo ngược, nhấn mạnh không chỉ những đồ vật bị vỡ vụn, vụn vỡ mà còn là sự tầm thường tầm thường và vô giá trị. Cành khô khác quá nhỏ, cô đơn mỏi mòn. Trong trào lưu thơ mới của Huy Cận, anh trôi dạt vô định trong không gian rộng lớn ẩn hiện sau kiếp người và sự lạc lõng.

Cô đơn thơ nhỏ, gió hiu quạnh
, Còn đâu tiếng làng, xa chợ chiều?
Mặt trời lặn và bầu trời thăm thẳm.
Sông dài, trời rộng, bến vắng.

Bức tranh thiên nhiên chung trong thơ Huy Cận là gợi hơn là tả ”. Cô đơn thơ nhỏ gió sầu ”. Từ ‘thơ’ gợi sự nhỏ bé, nhấn mạnh sự trống trải nhỏ bé, hiu quạnh của một không gian bao la với những cồn cát nhỏ hoang vắng. Người nghệ sĩ cố gắng lắng nghe tiếng nói của con người. “Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều”. Đây là một câu hỏi tu từ phủ nhận sự tồn tại của sự sống con người.

Ở hai dòng cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả sử dụng các biện pháp đối đáp: “Từ mặt trời mọc đến trời cao”, “Từ sông dài đến trời rộng”, “Bến tàu cô đơn sâu thẳm”. Các động từ đảo ngược lên và xuống gợi lên những chuyển động riêng biệt. Chúng tôi đề xuất chiều cao và chiều sâu vô hạn của không gian mở. Nỗi buồn xuyên thấu qua tạo hóa của con người chỉ ra trạng thái cô đơn.

Thuyền trôi về
đâu?
Không đòi hỏi một chút thân tình,
bờ xanh lặng lẽ gặp bãi vàng.

Khổ thơ tiếp theo gợi lên sự mơ hồ, và “Bèo tấm” không đơn giản chỉ là một loại bèo không tìm được hướng đi của thiên nhiên. Đây là thế hệ trẻ Việt Nam không tìm được lối đi.

Hoàn toàn không có hình dáng con người trong toàn bộ vũ trụ này. Vì là phà nên phải có người qua cầu nhưng nghệ sĩ nói: “Không”. Nó khẳng định rằng chỉ có một điều rằng ‘bãi xanh yên ả gặp bãi biển vàng’, điều đó phủ nhận rằng đó là tự nhiên.

Đó là sự cô đơn, là sự bất ổn của một cái tôi thơ mới. Với nhà thơ Huy Cận, điều làm nên nét riêng cho người dân nơi đây là tình cảm được tác giả nói rất nhiều, như nhan đề “Thương tiếc trời rộng, thương nhớ sông dài”. Nó cô đơn, lo lắng và rùng rợn.

Từng lớp mây cao đẩy những ngọn núi bàng bạc … Chim vỗ cánh bay:  Bóng chiều  quê đong đưa trong làn khói lam chiều mặt trời lặn, lòng nhớ nhà.

Khổ thơ cuối dường như mai một dần, nhưng hình ảnh ‘Núi bạc nhô lên’ là một không gian hùng vĩ, hùng vĩ được xếp chồng lên nhau. Đối lập với không gian hùng vĩ, hùng vĩ là “cánh chim nhỏ trong bóng chiều tà”. Nếu bài thơ trên mang cảm giác cổ điển thì ở đây nó lại mang yếu tố hiện đại. Chiều muộn ấy, đôi cánh của một chú chim nhỏ sắp tung tăng. Cái tôi thơ mới ấy tự nó đã kèm theo nỗi sầu, nỗi thao thức. Cánh chim không chỉ mang theo sức nặng của mặt trời lặn mà còn mang cả nỗi niềm của một nhà thơ mới.

Ở hai câu cuối của bài thơ “Lòng nước động lòng non nước, cả một hoàng hôn không khói cũng nhớ quê”. Đây là sự hoài cổ, ở đó sự hiện đại là sự phủ nhận ảnh hưởng của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ da diết, rạo rực hơn và hướng về quê hương mà nhớ da diết, nhớ quê hương da diết. Từ ‘mềm nhũn’ giống như một làn sóng tâm trí bị Ngụy Vô Tiện đè nén.

Nhìn chung, cả bài thơ đều buồn, đây là tâm trạng của các thi sĩ lãng mạn lúc bấy giờ, và là nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa thực hiện được lí tưởng cách mạng, và bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ. của Yu Kang. “Thật đáng buồn và ảo tưởng.” ‘Jjangjang’ được coi là bài thơ chuẩn bị cho con đường thơ ca của đất mẹ. Nó sử dụng phép tu từ cũng như cách diễn đạt thơ để tạo ra những tác phẩm đẹp và độc đáo.

IV. Tổng kết những lưu ý và chú ý khi Phân tích bài thơ Tràng Giang


Đây là một số chú ý và lưu ý quan trọng khi viết bài:

  1. Hiểu rõ đề bài: Để viết được một bài hay và chất lượng, bạn cần hiểu rõ đề bài và các yêu cầu của nó. Nếu bạn không hiểu rõ đề bài, hãy hỏi thầy cô hoặc giáo viên hướng dẫn để có thể làm bài tốt nhất.
  2. Sắp xếp thời gian và lên kế hoạch: Hãy sắp xếp thời gian và lên kế hoạch cho quá trình viết bài, bao gồm cả thời gian để tìm hiểu, sưu tầm tài liệu, lên ý tưởng và viết bài. Hãy đảm bảo để lại đủ thời gian cho việc đọc lại bài và sửa chữa các lỗi sai.
  3. Lựa chọn thông tin phù hợp: Hãy chọn những thông tin cần thiết và phù hợp để hỗ trợ cho ý tưởng của bài viết. Không nên sử dụng quá nhiều thông tin không liên quan hoặc không cần thiết, vì điều đó sẽ làm bài của bạn trở nên lủng củng và mất tính thuyết phục.
  4. Lựa chọn cách trình bày phù hợp: Tùy theo đề bài mà bạn có thể lựa chọn cách trình bày phù hợp như: dẫn chứng, phân tích, so sánh, lập luận, nêu ý kiến cá nhân… Hãy sử dụng các phương pháp trình bày sao cho phù hợp với đề bài và giúp cho bài viết của bạn trở nên mạch lạc và dễ hiểu.
  5. Chú ý đến ngữ pháp và chính tả: Bạn cần chú ý đến ngữ pháp, chính tả trong quá trình viết bài. Điều này giúp cho bài viết của bạn trở nên chuyên nghiệp và dễ đọc hơn. Bạn có thể sử dụng các công cụ hỗ trợ như trình kiểm tra chính tả và ngữ pháp để giúp cho quá trình viết bài trở nên dễ dàng hơn.
  6. Đọc lại và sửa chữa: Sau khi viết xong bài, bạn cần đọc lại và sửa chữa các lỗi sai còn sót lại. Điều này giúp cho bài viết của bạn trở nên hoàn thiện và chính xác hơn.
  7. Nếu bạn còn thời gian, nên để bài nghỉ một chút và sau đó đọc lại bài viết của mình để có thể nhìn nhận bài viết từ một góc độ khác. Bạn cũng nên yêu cầu người khác đọc bài viết của mình và đưa ra ý kiến đánh giá, để bạn có thể sửa chữa và cải thiện bài viết của mình.
  8. Ngoài ra, hãy chú ý đến cách sử dụng từ ngữ và tránh sử dụng những từ lặp lại quá nhiều lần. Sử dụng các từ đồng nghĩa hoặc cách diễn đạt khác để giúp bài viết của bạn trở nên phong phú hơn.
  9. Cuối cùng, hãy kiểm tra lại định dạng và trình bày của bài viết. Đảm bảo rằng bài viết của bạn đã được sắp xếp một cách logic và chính xác, với các đoạn văn ngắn và dễ đọc hơn.
  10. Tóm lại, để viết một bài hay và chất lượng, bạn cần lên kế hoạch, tìm kiếm thông tin phù hợp, sử dụng ngôn ngữ chính xác và tránh những lỗi sai, và cuối cùng là đọc lại và sửa chữa bài viết của mình.

V. Video hướng dẫn phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi


Như vậy, thông qua bài phân tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi –  tác giả Huy Cận, chúng ta có thể cảm nhận được sự tinh tế và tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Bằng cách đưa ra những hình ảnh sống động, đầy hào hùng và thi vị, tác giả đã tạo nên một tác phẩm văn học đầy cảm hứng và ý nghĩa.

Đối với học sinh giỏi, việc đọc và phân tích những tác phẩm văn học như Tràng Giang sẽ giúp họ cải thiện khả năng ngôn ngữ và phát triển tư duy sáng tạo. Bên cạnh đó, bài phân tích này cũng giúp các bạn hiểu sâu hơn về những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam, cũng như đánh giá được tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát huy những giá trị đó.

Cuối cùng, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến độc giả đã dành thời gian đọc bài phân tích này. Chúc các bạn luôn thành công trong học tập và cuộc sống, đồng thời tiếp tục đam mê và khám phá những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam.


The article is compiled and aggregated from many sources by An Vượng Villa.

See more articles in the same category here: Văn Học

Xavier Diaz

Trong thế giới đầy tri thức và sự phát triển không ngừng, tôi, Xavier Diaz, mong muốn được chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình với mọi người. Với hơn 15 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực chia sẻ kiến thức và sáng tạo nội dung, tôi tự hào là một người luôn đam mê học hỏi và truyền cảm hứng cho những người xung quanh. Được sinh ra tại Washington, Hoa Kỳ, tôi đã trải qua nhiều thử thách và trưởng thành nhờ vào sự học hỏi và trau dồi bản thân. Tôi tin rằng mỗi người đều có tiềm năng để phát triển và vươn tới những mục tiêu lớn lao, chỉ cần họ có đam mê, sự kiên trì và khát khao học hỏi. Đó cũng chính là tinh thần mà tôi mong muốn lan tỏa cho mọi người, bằng cách chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình một cách sáng tạo và đầy tính nhân văn. Với niềm đam mê văn học và thơ ca, tôi mong muốn truyền cảm hứng và khơi gợi những cảm xúc tinh tế nhất từ những tác phẩm của mình. Cùng tôi khám phá và truyền đạt những giá trị đích thực của cuộc sống, đồng hành và học hỏi từ những người xung quanh để chúng ta cùng vươn tới những giá trị cao đẹp nhất trong cuộc sống này.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Check Also
Close
Back to top button